Lời Kinh Thánh

Hãy tin Đức Chúa Jesus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. Kinh Thánh - Công Vụ Các Sứ đồ 16: 31

Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

THÁP VĨNH CỬU - 2


THƯ CHO MỘT THIẾU NỮ
Mùa hè tôi dọn tới Greenville, S. C. để lập một hội thánh. Vừa mới xong được một năm ở đó, một hôm tôi xếp lại ví da. Tôi khám phá một nắp phong bì tam giác đã bạc màu, và tính ném vào giỏ rác thì nhớ lại mẩu đối thoại cách đây mười tám tháng. Được thúc giục, tôi quyết định làm một việc mà tôi chưa hề làm trước đây - viết thư cho tên được ghi trên tấm giấy bạc màu này.

Tôi không nhớ là mình vừa mới viết thư cho một thiếu nữ. Lúc nào tôi cũng nghĩ là mình phải vui vẻ với những người mình đang sống chung, thay vì tách mình ra , chui vào một góc để liên lạc với những người mình không thể gặp được. Triết lý hiện tại của tôi dường như là: vui với những người đang hiện diện với mình, và khi không còn ở chung với họ nữa thì hãy vui với những người mình mới gặp. Bạn có thể thấy đó, tôi không bao giờ thích viết thư cho lắm.

Thật ra, hẳn tôi đã không giữ mảnh giấy này nếu Gene Evans không làm ầm ĩ như thế về cô này! Bây giờ tôi không biết nói gì với cô ấy trong thư. Thấy mình thật quá khùng! Tôi chưa hề gặp cô ta, thậm chí cũng chưa thấy nữa. Thế mà bây giờ lại cố gắng viết một lá thư nghe cho hợp lý để gửi cho một thiếu nữ mà người bạn cùng phòng với tôi đã gặp vào một tối cách đây một năm rưỡi. Tôi không biết hoàn cảnh hiện tại của cô ấy ra sao. Có vẻ đây là một việc làm điên rồ. Nhưng dù sao thì tôi cũng viết xong.

Trong ba tuần nữa, tôi phải tham dự một hội đồng mục sư cách tỉnh nhà cô ấy không xa lắm. Cho nên trong thư tôi hỏi xem mình có thể ghé qua gặp cô ta được hay không vì cô là bạn tình cờ của người cùng phòng với tôi ở Nyack.

Tôi không nhận được trả lời, và phân vân không biết có nên đi tàu hỏa thẳng tới hội đồng, hoặc lái xe để có thể ghé ngang nhà cô ấy ở Carthage hay không. Buổi sáng cuối cùng tôi đã soạn đồ đạc xong xuôi. Tôi bỏ xe trong khu đậu xe rồi đi bộ tới nhà bưu điện kiểm tra thư từ. Chẳng có thư nào cả. Tôi xách va li theo và đi về hướng nhà ga. Bỗng nhiên tôi bị một người đàn ông chận lại, nói: “Ông Freed ơi, tôi phải nói chuyện với ông. Tôi gặp nan đề kinh khủng lắm.” Tôi chỉ nhớ mặt anh này. Tôi mỉm cười và nói: “Được rồi, tôi sẽ cầu nguyện cho anh.”

Anh giải thích: “Không, còn quan trọng hơn thế nữa kia. Ông phải giúp tôi ngay bây giờ. Tôi đang gặp rắc rối.”

“Tôi rất tiếc, xe lửa chạy lúc 10giờ30, và tôi sẽ bị trễ tàu, nếu dừng lại nói chuyện với anh bây giờ. Mình hãy hẹn nhau tuần tới, sau khi tôi trở về đi nhé?”

Anh ta có vẻ nghiêm nghị. “Tôi không biết phải nói với ông thế nào. Tôi biết chắc chuyến tàu của ông rất quan trọng. Nhưng tôi không thể tưởng tượng được chuyến tàu của ông - cho dù có đưa ông tới đâu - lại có thể cấp bách hơn điều tôi đang cần ông giúp. Ông không hiểu được sao? Cuộc sống đã kết thúc với tôi rồi. Tôi tiêu rồi. Đời tôi thật vô vọng. Không có lối thoát. Tôi cần được giúp đỡ.”

Tới lúc này thì tôi cũng quẫn trí như anh ta: “Nhưng tôi đang bận đón tàu . . .”
“Tôi cần giúp đỡ.”

“Có thể người khác sẽ giúp anh.”

Anh ta chận lại và lặp lại: “Không, tôi chỉ - . Ông - ông chính là người phải giúp tôi!”
“Anh có ý nói là cho dù tôi có bị trễ tàu ư?”

“Đúng! Ông không hiểu được sao? Tôi cần được giúp . Và tôi muốn ông cùng đi với tôi ngay bây giờ để giúp tôi.”

Tôi xách va li lên, khoác tay anh, rồi quay về chỗ tôi đã đậu xe.

Thôi được, nếu vấn đề thực sự quan trọng như vậy thì tôi nghĩ là mình không thể chọn lựa. Tôi sẽ làm điều mình có thể làm để giúp anh.”

Tôi chở anh ngang qua tỉnh, tới nhà thờ của tôi. Thực sự đây là một cửa hàng được cải tạo lại, nhưng bên trong thật đẹp. Chúng tôi tự đóng lấy ghế ngồi. Ánh sáng phản chiếu êm dịu, sàn đều trải thảm. Chúng tôi bước vào và ngồi xuống. Anh bắt đầu trút đổ tâm sự và cho biết cuối cùng anh đã bị rượu sai khiến ra sao.

“Tôi tiêu rồi. Chẳng còn lý do nào để tiếp tục sống nữa. Tôi có người vợ rất tốt. 
Nhưng bà ấy nói không thể chịu đựng tôi được nữa. Bà ấy đã chấm dứt với tôi rồi, bà ấy đã chịu đựng tôi tới mức tối đa, và tôi không trách bà ấy. Tôi về nhà say mèm, đánh đập con cái. Chúng khiếp sợ tôi, thường chịu đói. Tôi chẳng ích lợi gì cho ai cả. Vợ tôi nói với tôi: ‘Ông ra khỏi nhà đi, và đi luôn đi. Tôi hết tình nghĩa với ông rồi.’ Thật ra là tôi cũng hết tình với chính bản thân mình. Tôi đang nghĩ cách phải chấm dứt như thế nào đây.”

Tôi nói với anh là thực sự có một Đức Chúa Trời yêu thương anh bất chấp tình trạng bê bối khủng khiếp đó của anh, rằng Chúa Giê-xu Christ có thể thay đổi cả cuộc đời anh. Thánh Linh hiện diện với tôi sáng hôm ấy, và trong chẤn Động của lời thú tội tuyệt vọng nơi người đàn ông này, vẫn là sự bảo đảm về tình yêu cùng sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Nguyện vinh quang thuộc về Đức Chúa Trời, tôi muốn nói rằng người này đã được cứu cách kỳ diệu. Chúng tôi cùng cầu nguyện xin Đức Chúa Trời thay đổi cách sống đồi trụy của anh.

Tôi đưa anh về với gia đình sau khi đã nói chuyện và cầu nguyện, và vợ anh lắng nghe câu chuyện anh kể lại. Chị nói: “Đây là điều kỳ diệu nhất mà tôi từng được nghe,” rồi chị cũng dâng lòng mình cho Chúa Giê-xu. Lệ lăn dài trên má của cả hai, khi họ cầm tay nhau và chị nói: “Tất nhiên là nếu ông ấy nghiêm túc thì tôi muốn ông ấy quay về. Tôi muốn gia đình mình đoàn tụ hơn bất cứ điều gì khác!”


Nhiều ngày sau đó, khi từ North Carolina quay lại, tôi thấy anh thực sự kinh nghiệm sự cứu rỗi . Anh nghiêm túc với Đức Chúa Trời, anh đã bỏ uống rượu. Gia đình Cơ Đốc đầm ấm của họ tiếp tục minh chứng rằng việc lỡ chuyến tàu buổi sáng Tháng Tám 1945 hôm ấy thật đáng giá - dù rằng tôi thật đã ương ngạnh trong chuyện đó. Đúng là thời điểm của Đức Chúa Trời, và tôi suýt chận đứng đồng hồ của Ngài!

Sau khi rời nhà họ, tôi lái xe trở lại bưu điện. Lần này có thư trong thùng thư của tôi, và một trong những thư này là của Betty Jane Seawell, cô ghi tên trên nắp phong bì! Đó là một thư ngắn điềm đạm nói: “Ba tôi sẽ vui đón tiếp anh . . .”

Vì thế tôi lái xe đến Carthage. Từ lúc tôi dừng tại ngôi nhà và thấy Betty Jane ra đón mình, tôi biết Gene Evans đã nói đúng. Có thể nói là nếu không nhận được thư cô ấy sáng hôm đó, chắc hẳn tôi sẽ không tìm cách liên lạc lại.

Đó là ngày Đồng minh chiến thắng Nhật bản và toàn thế giới đều vui mừng về sự kết thúc Thế Chiến II. Chúng tôi nghe tin báo cả nước sẽ có hai ngày nghỉ. Ông Seawell chắc chắn khúc quanh của biến cố này sẽ thay đổi kế hoạch của hội đồng, cho nên khăng khăng bảo tôi dùng điện thoại của ông để kiểm tra trước khi ra đi. Ông nói đúng. Toàn bộ hội đồng hoãn lại, nên tôi quyết định trở về nam.

Ba của Betty Jane chận tôi lại: “Ồ, không đâu! Cậu đã lái xe quá xa tới đây. Tốt hơn cậu nên ở chơi mấy ngày lễ với chúng tôi trước khi quay về.”

Tôi cảm nhận ngay đây là những Cơ Đốc nhân có lời chứng mạnh mẽ cho Chúa Giê-xu Christ. Ông Seawell là một luật gia Cơ Đốc nổi bật có ân tứ hiểu Kinh Thánh sâu sắc cũng như dí dỏm khác thường trong văn nói và viết mà ông vẫn thường dùng trong công việc Chúa. Bà Seawell đã về với Chúa hôm 5 Tháng Mười 1965, là một giáo viên dạy Kinh Thánh tài ba, không hề bỏ qua việc làm chứng và đứng về phía Chúa Giê-xu Christ. Mọi người thường nói: “Khi Jane Seawell trò chuyện với bạn thì chắc chắn là bà sẽ nói về Chúa của bà và Cứu Chúa Giê-xu Christ.” Ngày nay tại Carthage, North Carolina, Nhà Nguyện Phúc Âm là đài kỷ niệm lời chứng trung thành và không mệt mỏi của Chub và Jane Seawell - cũng là Bố và Mẹ của tôi.

Lúc ở lại Carthage tôi không cho là gia đình Seawell biết gì về tầm quan trọng của thời gian đó đối với Betty Jane và tôi sau này. Nhưng khi chúng tôi kết hôn, chỉ bảy tuần sau đó, thì mọi người đều thấy rõ ràng rằng không phải chỉ từng ngày mà là từng giờ đều ở dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời để thực hiện kế hoạch của Ngài đối với Betty Jane và tôi.

Chúng tôi không thể nói rõ cách Đức Chúa Trời đã giữ chúng tôi cho nhau. Ngài đã đưa chúng tôi vào kinh nghiệm biết rõ thật sống động - khiến cho tình yêu giữa chúng tôi rất nghiêm túc, sâu sắc, chân thành và vị tha. Thật Ngài đã kiên nhẫn gìn giữ cô ấy cho tới khi tôi sẵn sàng chịu lắng nghe.

Betty Jane nói với ánh long lanh trong đôi mắt nâu của nàng với mọi người: “Tôi cho rằng Đức Chúa Trời đã dành sẵn người này cho tôi. Tôi muốn mọi người trẻ khác cũng hoàn toàn tin chắc như vậy. Tôi thực sự tin là họ phải biết chắc là Đức Chúa Trời đã lực chọn chính xác người bạn đời cho họ, và họ sẽ chỉ gây rối cho đời mình nếu đi trước ý Chúa và kết hôn trước thời điểm của Ngài. Và nếu không có ai trong kế hoạch của Ngài, thì tốt hơn là không nên kết hôn.”

Betty Jane lúc nào cũng quan tâm chia sẻ câu chuyện của chúng tôi cách chính xác với đám trẻ, vì cả hai chúng tôi đều cảm thấy một khoảng thời gian tương đối dài hơn thường cần thiết cho việc đặt một nền tảng vững chắc cho hôn nhân. Trường hợp của chúng tôi không phải là khuôn mẫu để bắt chước cách hời hợt. Trong trường hợp chúng tôi, thực sự chẳng có lý do để chờ đợi. Cả hai chúng tôi đều đã học xong. Tôi đã để dành được đủ tiền. Cả hai chúng tôi đều biết chắc Đức Chúa Trời đã đưa chúng tôi lại gần nhau và hôn nhân của chúng tôi là kế hoạch của Ngài.

TÌM KIẾM CHÍNH NGHĨA
Ngay từ đầu phong trào Youth For Christ ( YFC, Tuổi Trẻ Cho Đấng Christ) tôi đã bỏ chức vụ mục sư để làm giám đốc YFC tại Greensboro, N. C. Torrey Johnson, người sáng lập cuộc tập họp cho khái niệm mới mẻ này giữa vòng học sinh trung học, ăn khớp với hình dung của tôi về người lãnh đạo biết nhìn thấy rõ nhu cầu của người khác, rồi khôn ngoan tìm kiếm một kế hoạch hành động thích hợp để đáp ứng nhu cầu đó.

Chính Torrey Johnson là người dạy tôi, không chỉ hình dung ra một khái niệm mới, mà còn tiến tới trong đức tin để hoàn thành điều được cảm động trong giây phút rõ ràng. Chính Torrey là người nhìn thẳng vào mắt tôi tại hội đồng Winona Lake, Indiana, và nói: “Paul à, tôi tin rằng Đức Chúa Trời muốn anh đi Âu châu.” Anh ấy thúc giục tôi quyết định tham dự hội đồng Youth For Christ tại Beatenberg, Switzerland. Về sau tôi biết là anh ta đã chuẩn bị vợ tôi trước bằng cách nói với cô ấy: “Tôi không nghĩ là chị chỉ để cho Paul đi Âu châu, tôi nghĩ là chị còn phải thúc giục anh ấy đi nữa.”

Thật khó rời Betty Jane vì chúng tôi hầu như thường xuyên ở bên nhau suốt ba năm đầu mới cưới. Tuy nhiên, sự xa cách, tỏ ra có ích cho cả hai chúng tôi trong cuộc sống. Trong thời gian nàng ở chung với ba mẹ tôi trong túp nhà nhỏ ở Nyack, nàng viết thư cho tôi nói về mẹ tôi như sau:

“Em nghe anh nói Mẹ có thói quen cầu nguyện hai giờ hai mươi phút mỗi ngày. Em không thể hiểu được có người lại dâng phần mười thì giờ của mình để cầu nguyện như vậy! . . . Em chưa thấy ai sống toàn vẹn hơn Mẹ. Bà khéo léo trong việc lau bụi, soạn bữa ăn, nấu ăn. Lúc nào bà cũng gọn gàng và sạch sẽ. Luôn luôn tỏ ra thoải mái, không hề nổi nóng hay bực tức. Bà luôn tỏ ra yêu thương. Đối với em, bà là gương mẫu mà em thích được giống khi nghĩ tới việc theo Chúa. Em vẫn ao ước nhìn thấy theo Chúa thực sự phải như thế nào, làm sao có người nào đó thực sự đưa Cơ Đốc giáo vào hành động. Anh yêu dấu, anh đã cho em có cơ hội! Mẹ chính là hình ảnh thu nhỏ của một Cơ Đốc nhân. Giống hệt như là được ‘bôi trơn’ vậy đó. Cuộc sống của mẹ trôi không chút va chạm. Em nghĩ đó là ‘dầu của Thánh Linh.’

“Khao khát của bà là được giống Đấng Christ. Vấn đề không phải là số lượng thì giờ bà dùng vào việc đó - tuy bà cũng có ghi lại kỹ càng trong sổ nhỏ về thì giờ cầu nguyện của mình. Nhưng tôi chưa hề có cảm giác là bà cố tạo ra như vậy. Bà là người rất có kỷ luật, nhưng không phải với nghĩa khắt khe. Bà chỉ học biết rằng khi mình hành động theo qui luật, cách sống của Đức Chúa Trời - giống như máy điều chỉnh tốt - thì chạy trơn tru. Em nhớ anh kinh khủng, anh yêu dấu, nhưng em cám ơn anh cho em có thời gian này để học tập. Thật tốt được ở đây với Ba Mẹ Freed.”

Có lẽ Torrey không ngụ ý rằng khi giục tôi đi Âu châu là trên một phương diện, anh giúp Đức Chúa Trời đẩy tôi ra khỏi tổ chức mới phổ biến này của giới trẻ Hoa Kỳ. Tôi cũng chẳng có ý muốn rời anh. Thế nhưng, khi từ Thụy Sĩ và Tây Ban Nha về, tôi có được sự hiểu biết rộng lớn hơn về một thế giới không có hi vọng.

Trong những lần tập họp của Youth For Christ, tôi cố gắng chia sẻ gánh nặng đau buốt mà mình cảm nhận được, cùng khải tượng vẫn còn tươi mới về Tây Ban Nha. Tôi nói nhiều về Tây Ban Nha, về những đám đông đói khát. Nhưng ban lãnh đạo địa phương có những mục tiêu riêng để đạt tới, và chúng tôi biết chắc ngay rằng Chúa đang đẩy chúng tôi ra khỏi hoàn cảnh địa phương qua khải tượng mở rộng mà Ngài đã ban cho tôi tại Âu châu. Cảm giác còn lu mờ nhưng dai dẳng. Đó là một kinh nghiệm bối rối. Phát thanh vẫn chiếm chỗ tối hậu trong lời giải đáp cho hàng triệu người Tây Ban Nha.

Khả năng truyền thanh sang Tây Ban Nha có vẻ đủ thực tế. Nhu cầu có vẻ cấp thiết, nhưng chúng tôi làm gì được nếu không có nhân sự, không có tiền? Những nỗ lực của chúng tôi tại Hoa Kỳ nhằm khơi dậy sự đáp ứng, dường như bế tắc bất cứ nơi nào tôi cố gắng chia sẻ khải tượng. Áp lực gia tăng trong tôi khi tôi ước lượng khả năng phát thanh cho 30.000.000 triệu người trước vẻ thờ ơ của những Cơ Đốc nhân Hoa Kỳ.

“Lạy Cha, chúng con phải làm sao đây? Con không thể bỏ cuộc! Nhưng con không biết phải làm gì!”

Nhận biết mình không còn có thể thỏa mãn khi làm việc trong giới hạn một thành phố, tôi rút khỏi chức vụ trong Youth For Christ, và thông báo mình sẵn sàng làm người truyền giảng Phúc Âm. Đó là một bước nhỏ trong chiều hướng đến mục tiêu tối hậu, nhưng từ góc độ cá nhân, thì sự thay đổi có tầm mức quan trọng.

Vào lúc này Chúa cho chúng tôi đứa thứ nhất trong năm con, đó là Paul David, sinh ngày 26 Tháng Mười 1949. Nó mang lại niềm vui cùng hạnh phúc lớn cho gia đình chúng tôi. Nhưng chúng tôi không còn sống nhờ vào đồng lương đều đặn được nữa. Chúng tôi được thúc giục sống bằng đức tin thay vì bằng mắt thấy. Kể từ nay thực phẩm cùng tiền thuê nhà đến trực tiếp từ Chúa thay vì từ văn phòng YFC. Đây là thời gian thử thách.

Tiếp theo những cố gắng đầu tiên của tôi nhằm yêu cầu sự trợ giúp từ các mục sư Tây Ban Nha, tôi đi đến một kết luận mới. Tôi bắt đầu tin rằng điều tối quan trọng đối với chúng tôi là di chuyển theo hướng Đức Chúa Trời đã chỉ định, nhưng riêng cá nhân mình cũng phải chăm chỉ làm việc , dành riêng số tiền mình có thể kiếm được cho chức vụ còn đâu đó trong tương lai mơ hồ.

Chúng tôi bắt đầu bằng cách thiết kế và đóng những xe thùng tại Scranton, Pennsylvania. Sau đó tại vùng Greensboro chúng tôi bắt đầu xây nhà cho nhóm thu nhập từ tám tới mười ngàn đô la, những nhà khác thì tôi thiết kế theo ý người mua để bán khoảng ba mươi ngàn đô la. Mỗi chút lợi tức có thể rút ra được là chúng tôi đưa vào một quỹ dành cho “công việc.” Dần dần cán cân thăng bằng bắt đầu nghiêng. Khi “công việc” trở nên rõ ràng hơn, chúng tôi cắt bới những hợp đồng xây cất, cho tới cuối cùng chúng tôi cảm thấy tới thời điểm thích hợp để chấm dứt việc xây cất.
Vào 1951 những điều tra thêm về lục địa có vẻ khôn ngoan. Lần này Betty cùng đi với tôi sang Tây Ban Nha. Ba tôi cảm thấy việc nàng đi cùng tôi là dùng tiền đúng chỗ. Mọi người khác trong gia đình đều thấy nhu cầu nhân sự , nhưng đối với Betty Jane thì truyền giáo vẫn luôn luôn là thứ yếu. Toàn bộ số tiền đều do quà tặng từ bạn hữu Cơ Đốc. 

Nàng thường nói: “Điều đó thực sự có lợi anh à, em chưa hề thấy bất cứ điều gì giống như vậy trong đời mình, và nó khiến em sẵn sàng chấp nhận những hi sinh cần thiết.”

Russ Reid cũng tháp tùng chúng tôi. Chúng tôi rất thích sự thông công cùng chức vụ của anh ấy cả về âm nhạc lẫn lời giảng.

Lần này khi đề cập tiềm năng phát thanh, một thông dịch viên Tây Ban Nha nói: “Các ông phải đi qua Tangier, đó là nơi tốt nhất để phát thanh.”

Tôi không muốn đi Tangier chút nào. Tôi thấy mình ngần ngại trước lời đề nghị này giống như tôi đã ngần ngại khi Đức Chúa Trời sai tôi đến Tây Ban Nha lần đầu tiên. Dường như đó là sự phí phạm. Cả cuộc đời của tôi đã được đầu tư tại Trung Đông giữa người Ả Rập. Tại sao Đức Chúa Trời lại chọn cho tôi những con người hoàn toàn xa lạ trong một xứ hoàn toàn xa lạ như thế?

Nhưng tất cả việc Ngài phải làm đó là đưa tôi tới Tây Ban Nha - để đặt tôi dưới những hang động tăm tối cùng những đường phố đông đúc. Trước khi nhận ra được chuyện gì đang xảy ra thì mắt tôi đã ướt đẫm lệ. Tôi hiểu trong một thời gian rất ngắn rằng nhu cầu của người Tây Ban Nha không có Đấng Christ cũng thực hữu như của người Ả Rập, mà cuộc sống không có Đấng Christ của họ đã từng luôn luôn là gánh nặng trong lòng tôi.

Bây giờ chính lời đề nghị đi Tangier hiện ra như mối đe dọa cho chức vụ đã từng lôi kéo tôi mạnh mẽ đến với dân tộc Tây Ban Nha. Tôi đã giảng trong nhà thờ cùng nhà riêng của họ, họ là dân tộc tôi. Tôi được sưởi ấm bởi tình yêu của họ, tôi ưa thích đáp ứng cùng sự tán thưởng nồng nhiệt của họ. Tại sao Đức Chúa Trời không thể mở ra những phương tiện phát thanh ngay tại đây, trên đất liền? Tại sao Ngài muốn dời chúng tôi sang Phi châu? Tôi cảm thấy phần nào giống như quân cờ bị di chuyển trên tấm ván bởi một đầu óc bậc thầy khổng lồ. Và tôi không thể hiểu việc di chuyển đặc biệt này ra khỏi Tây Ban Nha hơn tôi hiểu việc dọn tới Tây Ban Nha.

Một Cơ Đốc nhân Tây Ban Nha cao niên vàkhôn ngoan, Samuel Vila, đã cho tôi biết hai người cầu nguyện cho chức vụ phát thanh cho Tây Ban Nha. Họ là Peter Harayda và Ruben Lores. Và ông cho tôi biết là họ sống ở Tangier thuộc Bắc Phi!

Thế là một sáng nọ chúng tôi đi xe búyt từ Seville tới Algeciras, một tỉnh nhỏ Tây Ban Nha nơi có phà băng ngang eo biển tới Tangier. Khi tới duyên hải Bắc Phi chúng tôi định vị Harayda cùng Lores rồi bắt đầu cùng chia sẻ giấc mơ chung về một đài phát thanh truyền giáo cho người Tây Ban Nha - hàng trăm ngàn người mà chúng tôi không thể nào nói chuyện bằng cách nào khác.

Hoàng hôn đêm đó, từ dãy núi nhìn xuống Eo biển Gibraltar, chúng tôi có thể nhìn thấy Tây Ban Nha. Chúng tôi đang cắm trại bên ngoài Tangier, trên vùng đất xinh đẹp của một trường truyền giáo ngày trước. Chúng tôi lấy làm buồn nghĩ đến lòng tận hiến cùng những giấc mơ - của người nào đó mà chúng tôi không biết - đã xây dựng nơi này, giờ đây bỏ trống, nhện giăng, và tan nát. Chúng tôi thấy dường như chúng tôi có thể cứu vãn, mang lại sức sống mới cho nó và nhằm biến nó thành đài phát thanh trong khải tượng chúng tôi.

Tangier là một thành phố quốc tế, cách biệt với Tây Ban Nha chỉ hai mươi sáu dặm đường thủy. Khi đứng trên đất Morocco nhìn xuống Tây Ban Nha, chúng tôi nhận biết ở đây mình được tự do xây cất, trong khi có thể là không hề có cơ hội như vậy trong Tây Ban Nha. Trong một rừng thông ngát hương, sáu người chúng tôi qùi xuống cầu xin Đức Chúa Trời ban cho chúng tôi ước vọng của lòng mình - để mình được xử dụng làm cầu nối những eo biển với tín hiệu rõ ràng về tin mừng của Chúa Giê-xu Christ cho dân Tây Ban Nha.

Ngày hôm sau chúng tôi viếng thăm vị giáo sĩ tám mươi tuổi, một người Anh cao niên tin kính, là chủ của miếng đất chúng tôi đã cầu xin. Ông Elson đã bỏ hết những năm tháng đời mình tận tụy với những người dân này. Bây giờ với một ít quãng đời còn lại, cùng một túp lều nhỏ làm trụ sở, ông nắm bắt được khải tượng của chúng tôi và thấu hiểu khát vọng mãnh liệt trong lòng chúng tôi muốn mang Phúc Âm đến cho mọi người.

Trong khi ngồi nói chuyện với ông, chúng tôi nhớ lại lời Torrey Johnson khuyên chúng tôi trước đây: “Cứ hỏi xin mọi thứ đi, rồi sẽ thấy điều mà hầu như ai cũng làm được, đó là nói không.”

Tôi quyết định đây là cơ hội để làm theo lời khuyên đó. Tôi mời ông Elton cùng cầu nguyện với tôi về khả năng dâng miếng đất truyền giáo trước đây cho công việc phát thanh Phúc Âm.

Khi chúng tôi đứng lên, cụ già lịch sự nói: “Anh bạn trẻ ơi, nếu anh có thể dâng đời mình đi truyền giáo thì điều nhỏ nhất tôi có thể làm là dâng miếng đất của tôi.”
Tuy nhiên, ông giải thích chính ông không thể tự quyết định một mình được bởi lẽ ông đã hứa cho vài người bà con. Sau khi hỏi ý kiến, họ quyết định với giá mười lăm ngàn đô la, chỉ là một tỉ lệ nhỏ so với giá trị của tài sản truyền giáo đó.

Ngay sau cuộc gặp gỡ này, chúng tôi trở về theo đường Bồ đào Nha. Tâm trí chúng tôi chìm ngập trong lời cầu nguyện liên tục xin Chúa dùng miệng lưỡi cùng hình ảnh và lòng trung thành của chúng tôi đối với nhu cầu phải đánh thức Cơ Đốc nhân tại Hoa Kỳ cộng tác với chúng tôi. Bây giờ chúng tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng phát thanh Phúc Âm là chính nghĩa của chúng tôi, và Tangier chính là địa điểm.
Trở về Hoa Kỳ, trong khi tìm cách truyền đạt cho hội thánh gánh nặng cầu nguyện cho tiếng nói phát thanh Cơ Đốc đến với Âu châu, chúng tôi cũng quyết định rằng phim ảnh sẽ giúp ích cho việc kể chuyện. Lúc đang ở Tây Ban Nha, tôi có quay được vài cảnh phim rất hay. Những cảnh này tạo nền tảng cho cuốn phim đầy màu sắc, âm thanh mang kịch tính, Banderilla , tường thuật rất cảm động cho Cơ Đốc nhân tại Bắc Mỹ nỗi khó khăn của tín hữu tại Tây Ban Nha. Ben Armstrong, Mục sư của Hội thánh Cộng đồng tại Ringwood, N. J., cùng vợ là Ruth (em gái tôi) quan tâm sâu sắc cụ thể tới gánh nặng cùng khải tượng về Tây Ban Nha và giúp rất nhiều trong việc trình chiếu Banderilla trong nhiều hội thánh khắp nước Mỹ và Canada.

Không có sự hỗ trợ cụ thể nào, Betty Jane và tôi cùng với hai con nhỏ - Paul David ba tuổi và Donna Jean mới tám tháng - khởi đầu một chuyến 11.000 dặm đi làm đại diện. Suốt hai tháng rưỡi tôi nói và chiếu phim mỗi tối trong một hội thánh hoặc một hội trường. Thời khóa biểu thật khắc nghiệt nhưng cho thấy được buổi đầu của lời cầu nguyện và hỗ trợ hữu ích của chúng tôi dành cho Tây Ban Nha. Chúng tôi trở về nhà vào Đêm Giáng sinh.

Banderilla chứng tỏ vô cùng hiệu quả trong việc khơi dậy mối quan tâm giúp đỡ các mục sư Tây Ban Nha chỉ vừa đủ sống - thậm chí không hề nghĩ đến phương cách mở rộng tiếp xúc với dân chúng. Chúng tôi có gửi một số quà nhưng tôi vẫn biết đây chưa phải là giải đáp toàn vẹn của Đức Chúa Trời cho gánh nặng của tôi về hàng triệu người của Tây Ban Nha.

Khi con gái duy nhất của chúng tôi, Donna Jean, chào đời, chúng tôi không biết làm cách nào để đưa nó ra khỏi bịnh viện. Lời truyền tới tai chúng tôi là: “Anh chị không thể đưa bé về nếu chưa trả tiền phòng.” Chúng tôi nghĩ có lẽ một bạn thân hoặc người bà con nào đó sẽ là giải đáp. Nhưng đây chính là bài học quan trọng: chúng tôi bắt đầu học biết rằng sự việc ít khi đến từ nơi chúng ta mong đợi - nhưng đúng lúc và từ nơi Đức Chúa Trời muốn. Lần này cũng không phải là ngoại lệ. Đức Chúa Trời đã cung ứng.

Cùng ngày mà Donna chào đời - 11 Tháng Hai 1952 - Chương Trình Phát Thanh Xuyên Thế Giới chính thức bắt đầu, được thành lập dưới danh nghĩa “Truyền giảng Phúc Âm Quốc tế.” Ngay từ lúc khởi đầu với nỗ lực của chúng tôi nhằm giải quyết vấn nạn Tây Ban Nha, thì chỉ trích đã vây lấy chúng tôi. Phần lớn là do chúng tôi đã không thể xác định rõ mục tiêu của mình. Chúng tôi nghĩ là cần phải làm một việc mà chưa ai làm, nhưng chúng tôi không biết rõ phải đi theo hướng nào. Ý nghĩ phát thanh không bao giờ rời khỏi chúng tôi, và tận nơi sâu thẳm trong tâm trí mình, chúng tôi tiếp tục thắc mắc không biết Đức Chúa Trời sẽ mở lối ra sao.

Đối với cả hai chúng tôi, đây là phiêu lưu, đòi hỏi nhiều tháng học tập và tăng trưởng. Nhiều lúc chúng tôi bị cám dỗ bỏ cuộc. Thật là một cuộc tranh chiến. Suốt một thời gian, mỗi ngày hầu như quá sức chịu đựng của chúng tôi. Có những lúc dường như tôi hành động theo lực đẩy tự nhiên - liên tục tự đẩy mình ra đi kể chuyện, chiếu phim, nài xin Chúa đặt gánh nặng vào lòng những người khác.

Cần phải có can đảm và tin tưởng mới bước được vào những vùng xa lạ. Nhưng thường xuyên, ngay tại điểm chúng ta cảm thấy mạnh mẽ và chắc chắn, thì chúng ta lại bị hăm dọa bởi hàng loại chỉ trích tới tấp.

“Anh cổ động tiền bạc cho một đài phát thanh thậm chí không có thật.”
“Anh chưa có ban giám đốc quan trọng đủ.”
“Anh chưa rõ phương hướng mình đang đi.”
“Anh phải gia nhập một nhóm giáo sĩ đang hoạt động .”
“Đã có khối đài phát thanh đang hoạt động. Sao lại mở thêm làm gì?”

Cả đời, tôi chỉ muốn đáp trả. Hẳn là một cuộc tranh chiến từng hồi từng lúc. Nhưng dần dần tôi học biết rằng đáp trả hao tốn sức lực và thời gian. Nó có thể giết chết trái tim của giấc mơ. Chúng tôi bắt đầu khám phá ra rằng Chúa có thể khiến lòng chúng ta tràn đầy tình yêu đối với những Cơ Đốc nhân khác ngay cả khi họ trực tiếp dựng lên hết chướng ngại này tới chướng ngại khác trên bước tiến của chúng ta. Khi chỉ trích đe dọa bước tiến của chúng tôi, thì Betty Jane và tôi giúp nhau cầu xin Chúa hướng dẫn và xử dụng người chỉ trích trong công tác đặc biệt Đức Chúa Trời dành cho họ. Là Cơ Đốc nhân, chúng ta cần phải cầu thay cho nhau với tấm lòng yêu thương là dường nào - không phải là chỉ trích!

Và chúng tôi tin chắc khải tượng của chúng tôi đâm rễ trong Đấng Christ. Chúng tôi sẽ không thối lui. Cứ tại từng thời điểm chán nản thì chúng tôi lại an tâm rằng đây chính là công tác đặc biệt của chúng tôi. Và chúng tôi không cô độc trong công tác đó.

TRỞ LẠI RỪNG THÔNG
Tôi thường nhận thấy: “Điều quan trọng không phải là chúng ta đã bỏ ra bao nhiêu cho chính nghĩa của Đấng Christ mà là chúng ta còn giữ lại bao nhiêu.” Dường như trong khi chúng tôi đang xúc tiến công việc bước vào năm 1953 thì Đức Chúa Trời bảo tôi phải thử lại những lời mà tôi đã nói thật dễ dàng.

Ngày đó trở thành rõ ràng khi tôi phải trở lại Tangier để làm công việc chuẩn bị cơ bản cho đài phát thanh. Chúng tôi chẳng có sẵn chi phí cho chuyến đi. Vì vậy chúng tôi bán nhà và xe, và tôi dùng tiền để tìm hiểu thêm về tiềm năng phát thanh tại Morocco. Betty Jane cùng các con - Paul David gần bốn tuổi, Donna Jean gần hai tuổi, cùng bé mới sinh James Philip - dọn vào một căn hộ nhỏ.

Hành trình của tôi từ Mỹ lần này trực tiếp đưa tôi tới Tangier. Tôi biết phải mất thời gian để có được giấy phép cần thiết của chính phủ hầu có thể khởi công xây dựng đài phát thanh. Tôi đã sẵn sàng chịu thử thách tánh kiên nhẫn của mình, bởi lẽ bánh xe nhà nước ở bất cứ xứ nào cũng quay thật chậm.

Lúc đến thành phố cảng, tôi bắt đầu thủ tục thường lệ mà tôi tin là cuối cùng sẽ tạo ra những giấy tờ cần thiết để có phép xây các trạm truyền tin và các cột ăng-tên. Những cuộc thương lượng đều êm xuôi và tôi rất phấn khởi. Rồi một chuyện kỳ lạ xảy ra.
Một buổi sáng trong khi tôi đang đi qua các đường phố ồn ào của Tangier thì một người Mỹ chận tôi lại.

“Chào ông Freed. Tên tôi là Southworth. Tôi biết ông đang cố gắng xây một đài phát thanh.”

Tôi nhận ra ông ta là người đã có được giấy phép phát thanh và có đài riêng trong vùng quốc tế của Tangier. Tôi tự hỏi không biết ông ta đang nghĩ gì.
Ông ta nói tiếp: “Tôi xin có một đề nghị đơn giản. Tôi đề nghị ông đặt đài của ông theo giấy phép của tôi.”

Phản ứng đầu tiên của tôi là phủ định: “Không , tôi không nghĩ tới chuyện đó.”
“Ông có thể tiết kiệm được thời gian một năm hoặc hơn thế.”
“Cám ơn ông rất nhiều về lời đề nghị, ông Southworth ạ, nhưng thực sự là chúng tôi đang gặp thuận lợi lắm.”

“Có thể ông cũng tiết kiệm được tiền bạc nữa.”

Có lẽ là do tự kiêu mà tôi phản đối người ngoại cuộc muốn xen vào giấc mơ của tôi. Tôi nuôi khát vọng lớn là tự mình xây dựng giấc mơ của mình - thành một đài phát thanh hiệu quả mạnh mẽ. Tôi không thích ai đó cất lấy bàn tay của tôi. Đó là việc của tôi, và tôi cảm thấy mình chìm ngập trong ý thức chiếm hữu tất cả mọi sắp xếp khi đứng dưới bóng mát của một ngôi đền Hồi giáo, đưa mắt nhìn người Mỹ thân thiện này.

Đêm đó tôi không ngủ được. Chỉ có một mình trong phòng, tôi đọc Kinh Thánh và cầu nguyện một hồi lâu.

“Lạy Chúa, Ngài muốn phán gì với con?”

Tôi rảo quanh phòng, cầm một tạp chí, vài mảnh giấy, một tấm ảnh Betty Jane với các con, tôi muốn biết tại sao người Mỹ này đã được sai tới gặp tôi. Tôi phải nghĩ ra tại sao mình không sốt sắng nhận sự giúp đỡ của người này, để đài phát thanh có thể hoạt động ngay tức khắc.

Cuối cùng, sự ham muốn cùng tham vọng muốn chứng tỏ khả năng mình hiện rõ thật sắc nét, và tôi biết mình đang tìm cách tự điều khiển dự án Tangier một mình. Tôi sẽ thấy thỏa mãn khi nghĩ tới thắng trận này do sức riêng, hơn là chấp nhận lời đề nghị của một người được Đức Chúa Trời chọn để cùng chia sẻ trong việc xây dựng đài phát thanh của Ngài.

Vào sáng hôm sau, tôi sẵn sàng chấp nhận đề nghị của Southworth như là câu trả lời chính xác của Đức Chúa Trời cho chúng tôi. Tôi điện thoại cho ông, nói: “Vâng” và chúng tôi bắt đầu phác họa chi tiết của việc sắp xếp. Thật là một giải pháp kỳ diệu. Ông ta sẽ xây thiết bị truyền tin và dây ăng ten cho chúng tôi, sau đó giao trọn gói cho chúng tôi. Ông đã có giấy phép, có đất, cùng đội kỹ sư. Như vậy sẽ giảm nhẹ kinh phí cho chúng tôi rất nhiều - chỉ trả trong một thời gian.

Ngày hôm ấy mở ra cho tôi đủ mọi khả năng. Tôi thấy được mình sẽ dại dột biết bao nếu cố gắng làm mọi việc một mình. Tôi nghĩ, khi đi vào mọi chi tiết kỹ thuật tỉ mỉ như thế này, thì chẳng ai biết hết được lời giải đáp cho mọi thứ. Điếu tối quan trọng tôi có thể thấy được lúc đó là phải tìm ra những chuyên viên kỹ thuật có tài năng để làm những công việc kỹ thuật phức tạp. Những người tôi có thể tin cậy được. Những người không chỉ biết về ngành nghề của mình, mà còn biết áp dụng hiểu biết của mình trong bối cảnh tiên phong nữa.

Tôi chưa hề là con người say mê phát thanh. Tôi biết nhiều về các chuyện khác hơn là về phát thanh. Và có vẻ hơi la, đó là với quá nhiều tay phát thanh nghiệp dư trên thế giới như thế, mà Chúa lại vẫn chỉ định tôi phiêu lưu phát thanh cho Âu châu nữa.
Trí và lòng tôi bị thu hút bởi tiềm năng của những làn sóng trên không trung. Dường như sự truyền thanh có thể vượt qua mọi biên giới, mọi bức tường, đâm xuyên những ‘bức màn,’ hơn bất cứ thứ nào khác. Tôi nghĩ đến những đoàn dân đông của thế giới như chỉ “một thế giới,” với cùng những nhu cầu cơ bản trong lòng. Tôi biết mỗi cá nhân đều có quyền được tiếp xúc. Tôi tin chắc theo quan điểm của Đức Chúa Trời, mọi người đều được Ngài yêu dấu, rằng đối với Ngài không hề có rào cản, không có phân biệt. Vấn đề lộ ra thật rõ ràng. Mục tiêu của chúng ta là những tín hữu bao gồm Hội thánh của Chúa Giê-xu Christ ấy là phải đến với mọi người khắp nơi, không có ngoại lệ. Đến với họ qua làn sóng phát thanh cũng không phải chỉ là lý thuyết, vì chúng ta biết rằng lục địa Âu châu là nơi tập trung lớn nhất của những hệ thống phát thanh cho dân chúng khắp nơi trên thế giới bên ngoài nước Mỹ.
Đây chính là lực lượng có thể vượt núi, xuống thung lũng, băng ngang thôn xóm cùng rừng ô liu và vườn nho. Đây chính là lực lượng có thể len lỏi vào trí và lòng của những chủ tiệm, những tay đấu bò, những phu bến tàu, những người buôn bán dạo, những công nhân, những nhà nông. Đây chính là tín hiệu có thể thâm nhập những lâu đài sang trọng của cấp quý tộc, cùng những nhà vách đất của nông dân và mang lại sự sống cho mọi người chịu tiếp nhận.

Lòng tôi bừng cháy khát vọng nói cho mọi người đó biết rằng Chúa Giê-xu Christ yêu thương họ, rằng Ngài đã chết cho họ, rằng Ngài đã sống lại và hiện đang sống ngày nay. Tất cả việc họ phải làm là chỉ có tin mà thôi, NHƯNG, trước hết họ phải nghe.
Trong khi tìm cách gieo ý tưởng này tại nước Mỹ, thì mọi người thường cảnh cáo tôi: “Bản thân anh phải biết rõ máy phát thanh từ A đến Z trước rồi mới bước vào công việc đó được.”

Sáng hôm đó, trong khi ông Southworth nói chuyện với tôi, tôi biết những con người “an ủi” đó đã lầm lẫn. Thiết bị truyền tin cùng phòng thu thanh và dây ăng ten đều tuyệt đối thiết yếu, nhưng Đức Chúa Trời đã có những con người sẵn sàng đảm nhận những lãnh vực đó nếu chúng ta chịu lắng nghe Ngài. Những thiết bị này phải được xây dựng theo cách tốt nhất có thể được. Chỉ những ai được đặc biệt đào tạo mới làm được công việc này. Nhưng tôi cũng biết việc chuẩn bị trước những điều sẽ nói với thính giả cũng rất quan trọng sau khi mọi việc xây cất được hoàn tất và chúng tôi bật công tắc truyền sứ điệp Sự Sống Vĩnh cửu xuyên qua eo biển vào Âu châu.
Có nhiều vấn đề phải đối diện. Ngay từ khởi đầu, Chúa đã in sâu trong trí tôi tầm quan trọng của việc tìm ra một người có kinh nghiệm thực sự trong việc chỉ huy ban điều hành. Khi suy nghĩ đến mọi khả năng, bỗng nhiên trong trí tôi lóe lên ý nghĩ rằng người tốt nhất mà tôi có thể nhờ quản lý công việc tại Tangier chính là Ba tôi. Lúc ấy ông đang dạy tại viện Western Canadian Bible Institute ở Regina, Saskatchewan.
Khi trở về Mỹ, tôi gọi điện thoại cho ông thảo luận nhu cầu phải tìm người thích hợp nhất để điều hành đài phát thanh trước khi chúng tôi có thể xúc tiến công việc tại Tangier. Tôi chắc chắn ông là người thích hợp cho công việc đến nỗi tôi bối rối khi ông đáp lại lời mời của tôi: “Tiếc quá, Paul à, mới chỉ ba hôm trước, ba đã nhận lời làm viện trưởng cho trường rồi.”

Tôi chẳng biết nói sao. Tôi không thể mang lại cho ông bất cứ điều gì mảy may tương đương với sự bảo đảm tài chánh hoặc uy tín như chức vụ ở trường này. Cho tới nay, dù khởi đầu của Tangier thật tốt nhưng cũng vẫn là nhỏ. Thực sự , tất cả điều tôi có thể đem lại cho ông, ấy là sự thách thức về khả năng của một chức vụ rất rộng lớn, cùng hi vọng nó sẽ trở thành quan trọng đối với tất cả mọi người.

Ba tôi cũng bối rối như tôi. Ông nói với tôi: “Ba không biết phải làm gì, Paul ạ. Nhưng chúng ta sẽ cầu nguyện về việc này.”

Khi máng điện thoại lên, tôi có thể tưởng tượng Mẹ tôi đang ngồi trên ghế xích đu với cuốn Kinh Thánh trên đùi. Bà rất ít nói - luôn luôn sẵn sàng thích ứng với điều tốt cho chồng. “Mình sẽ biết điều tốt nhất phải làm, Ralph ạ.” Tôi hầu như có thể nghe bà nói như thế khi Ba tôi lặp lại cuộc đối thoại giữa chúng tôi.

Tôi cũng nghĩ tới bà quì gối cầu nguyện. Cầu nguyện không phải là việc Mẹ tôi phải làm; đó là việc bà muốn làm. Tôi biết bà sẽ cầm lấy bút chì rồi ghi thêm vấn đề cầu nguyện cho công việc ở Tangier vào danh sách cầu nguyện của bà. Suốt nhiều năm, bà có một cuốn sổ nhỏ - ghi đầy đủ những vấn đề cầu nguyện, những đối tượng cụ thể từng ngày. Tôi không biết phải chờ bao lâu bà mới có thể hớn hở chạy đến nói với Ba tôi: “Xem này, anh Ralph ơi, bây giờ mình có thể gạch bỏ vấn đề này rồi. Em đã cầu xin suốt hai năm nay, hoặc sáu tháng, hoặc mười lăm ngày. Và bây giờ chúng ta biết Đức Chúa Trời muốn gì rồi. Chúng ta có thể gạch bỏ được rồi.”

Qua kinh nghiệm quá khứ tôi biết rằng nếu họ tin một điều gì đó là đúng hoặc sai, thì cả thế giới cũng không thể thay đổi được lập trường của họ.

Bà thường bảo chúng tôi: “Dưới bầu trời tươi sáng này, các con chớ có bao giờ làm trái ý muốn Chúa nhé.”

Chỉ vài hôm sau là chuông điện thoại reo. Lúc tôi nhận ra giọng Ba tôi, cả thế giới ngừng quay trong giây lát khi tôi nghe: “Paul à, Ba không rứt điều đó ra khỏi lòng và trí Ba được. Ba biết không có ngân quỹ. Nhưng Mẹ và Ba đã cầu nguyện cho việc đó, và Ba Mẹ đang chuẩn bị đi. Tất cả điều Ba Mẹ yêu cầu con là cùng đứng với Ba Mẹ cầu xin Đức Chúa Trời cung ứng nhu cầu.”

Khi ngồi xuống ghế nghĩ về tương lai, tôi nghĩ đến những hàm ý đối với song thân tôi. Tôi không hiểu tại sao mình có gan đề nghị họ làm lại từ đầu. Vì đúng nghĩa là như vậy.
Lúc ấy Ba tôi đã sáu mươi mốt, một giáo sĩ kỳ cựu đã hoàn tất chức vụ tại Trung Đông xa xôi. Đức Chúa Trời đã kêu gọi, xức dầu và xử dụng ông. Bây giờ ông đã trở về Mỹ, với vinh dự được cử làm viện trưởng một trường Kinh Thánh. Dường như thật chính xác, đó là đỉnh cao xứng đáng với cuộc đời vất vả của ông nơi cánh đồng truyền giáo. Nhưng ông quăng hết tất cả, làm lại từ đầu để giúp tôi trong cuộc phiêu lưu mới toanh này.

Tôi đang yêu cầu song thân tôi trở về cùng chỗ nhiều năm trước đây, khi - cùng sánh vai trên những vỉa hè của Nyack, New York - họ hoàn toàn phó thác mình cho đức tin. Họ sẽ giống như những ứng viên trẻ vừa mới khởi đầu chức vụ.
Sau khi quyết định, Ba tôi giải thích: “Paul à, Ba Mẹ sẽ qua Tangier bắt đầu công vệc cho con. Chúng ta không còn được hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp tài trợ nữa, con biết đó, và cách thông thường là chúng ta phải đi từng hội thánh tự túc lấy. Ba không cảm thấy Chúa muốn Ba Mẹ làm công việc này vào thời điểm này trong đời mình.
“Bây giờ thì con biết chắc là mình đã có giám đốc cho đài phát thanh Tangier rồi, con có thể ra đi nói cho các bạn biết là công việc đã bắt đầu. Sau đó nếu mọi người quan tâm cầu nguyện, và khi quà tặng bắt đầu tới, thì con có thể gửi một ít cho Ba Mẹ. Ba Mẹ không đòi hỏi số lượng cố định. Ba Mẹ chỉ dùng số tối thiểu cho nhu cầu, phần còn lại sẽ dùng cho việc phát thanh.”


Vào cuối năm học, họ sắp xếp hành lý để rời Regina, Canada, tới Greensboro, N. C., cộng tác với chúng tôi lập một tổ chức hiệu quả. Tôi nghe Ba tôi cười thầm: “Đây là thứ tiêu khiển ưa thích của tôi.”

Khoảng sáu tháng sau, vào Tháng Giêng 1954, họ mỉm cười trên boong tàu vận tải ngày trước, tàu Vulcania, khi tàu rời bến cảng New York. Thời đó tàu chỉ có tiện nghi phòng ngủ tập thể, vì tàu chưa được làm lại sau thời chiến tranh. Tôi nín thở khi vẫy tay từ biệt họ đến với cuộc sống mới tại Bắc Phi.
Chẳng có những lời từ biệt trịnh trọng, chẳng có đại diện tiễn đưa, chẳng có phóng viên xô đẩy để tường thuật. Nhưng họ tin chắc rằng chỗ duy nhất trên đời này cho họ lúc đó là Tangier, Morocco.
Lần kế tiếp tôi đến Tangier thì đó là một mảnh đất vững chắc của riêng chúng tôi. Tôi có thể dạo quanh vùng đất, ngắm nhìn và lập kế hoạch. Tôi có thể đứng trong rừng thông và nói: “Cho tới nay, thật là tốt. Thưa Chúa, con cám ơn Ngài.”

Trên một phương diện, tôi cảm thấy nôn nao được về nhà sau một chuyến đi thật lâu dài. Đến một nơi tôi có thể nhìn tận mắt, một nơi tôi có thể sờ, một nơi tôi có thể đo đếm . . . chúng tôi có được mười bốn mẫu. Và dường như tôi cần thấy những ngọn đồi, cùng ngửi mùi gió muối tươi mát, và cảm nhận lá thông nhọn chích vào tay trước khi có thể nhận ra rằng giấc mơ dài lâu nay đã qua rồi. Hành động đã bắt đầu.

Miếng đất xinh đẹp nhìn ra Eo Biển Gibraltar nơi chúng tôi họp mặt một chiều hoàng hôn cách đây vài tháng sẽ là lý tưởng cho phòng phát thanh và làm nơi ở, nhưng chúng tôi không có tiền để mua. Một hôm trong lúc đang cỡi ngựa ngang vùng quê cùng với một người bạn là Clarence Staats, chúng tôi tình cờ đề cập miếng đất ở Tangier. Quay sang Betty Jane, ông Staats khiến nàng ngạc nhiên với hai câu hỏi thẳng thắn.

Ông bắt đầu: “Paul có biết anh ấy đang nói gì không?”
Sau khi nàng chứng minh cho ông ta là tôi vẫn sáng suốt, thì ông hỏi:”Vậy sao anh chị không làm gì đi?”

Betty Jane thốt lên tiếng kêu sửng sốt, gần như đau đớn: “Nhưng mà ông Staats ơi, tới mười lăm ngàn đô la cơ!”

Sau khi thảo luận thêm việc mua đất, ông Staats khiến chúng tôi kinh ngạc khi bảo rằng: “Tôi không thấy có lý do nào để không thu xếp cho anh chị.”

Nguyên cả khoản tiền được ông Staats dâng hiến ngay sau đó được gửi ngay tới cho Ba tôi tại Tangier, và ông thương lượng xong xuôi với ông Elton và có quyền sở hữu đất cho trụ sở phát thanh của chúng tôi. Chúng tôi tin rằng Tangier là vị trí lý tưởng cho đài phát thanh. Những thống kê cho thấy điểm thuận lợi về kỹ thuật để từ đó truyền thanh đi khắp Âu châu. The Voice of America (Đài Tiếng nói Hoa Kỳ) có hệ thống phát thanh rất mạnh cách nơi chúng tôi sẽ lắp đặt thiết bị truyền tin chỉ vài dặm, và chương trình của họ được nghe khắp gần xa.

Trong lúc đó, việc xây dựng tại Tangier đã khởi đầu. Chúng tôi phải chọn giữa hệ thống ăng ten đơn giản nhất với cái kề cận đơn giản nhất. Nếu có thêm tiền, chúng tôi có thể làm được nhiều hơn. Các kỹ sư cùng với ông Southworth bắt đầu với số ít thiết bị truyền tin thặng dư thời chiến - 2500 watts. Họ kèm thêm một cặp ăng ten rất đơn giản. Ngân qũy của chúng tôi cho năm đầu là 10.000 đô la - dưới một phần trăm của con số sau mười năm phát thanh.

Theo người Âu châu, mối quan tâm đối với chương trình phát thanh Cơ Đốc tại Âu châu hầu như là không có khi chúng tôi bắt đầu vào năm 1954. Một trong những lý do của sự thờ ơ giữa vòng các nhà truyền giảng Phúc Âm đó là ngoài MonacoLuxembourg, không một quốc gia châu Âu nào có lối thoát cho những sáng kiến phát thanh tư nhân cả. Các công ty truyền thanh hoặc là công, hoặc là điều hành bởi một hệ thống giám sát, lập ra những ủy ban gồm toàn những người được chỉ định trong guồng máy quan liêu tương ứng với thế lực của các đảng phái trong chính quyền. Các công ty này, vì là những định chế công, nên không bị buộc phải mang tính đa nguyên trong từng khía cạnh của chương trình, kể cả phát thanh tôn giáo. Bởi thế, không những chỉ Cơ Đốc nhân tin Kinh Thánh, mà cả những người với bối cảnh thần học rất khác nhau cũng đến với phương tiện truyền thông qua phát thanh: Thính giả sẽ phải đối diện, không chỉ với một sứ điệp Phúc Âm rõ ràng mà còn với những tài liệu của phái tự do, không theo Thánh Kinh nữa. Khái niệm cho rằng một mục sư phái Phúc Âm hoặc một nhà phát thanh Cơ Đốc có thể có một chương trình đều đặn trên một đài của phái Phúc Âm tọa lạc tại Âu châu, có vẻ như không thể nào có được.
Lúc đầu, khi ước vọng đánh thức và triển khai mối quan tâm còn tươi mới và chưa lu mờ trong tôi, thì tôi thấy tình trạng thật bi đát như thể đập đầu vào tường đá. Cấp lãnh đạo Cơ Đốc xuất sắc nói: “Phát thanh không có trong đường dây của chúng tôi. Chúng tôi biết người ta làm việc đó tại Mỹ, nhưng đó không phải là cách của chúng tôi.” Dĩ nhiên, họ không có những khả năng biến nó theo cách như chúng tôi có ở Mỹ. Chinh phục được sự tin tưởng cùng mối quan tâm và hỗ trợ của Cơ Đốc nhân Âu châu là một tiến trình chậm chạp, khó chịu.

Trong lúc đó, hoạt động của chúng tôi, hoặc việc thuê mướn, sắp xếp với Đài Phát thanh Quốc tế của ông Southworth ở Tangier chất thêm cho chúng tôi một số nghĩa vụ cố định mỗi tháng. Chúng tôi không xúc tiến được trôi chảy như mình muốn. Nguồn tài chánh vào rất chậm. Thậm chí ba tôi không có tiền để mua một xe hơi cũ để dùng tạm. Ba Mẹ tôi phải chờ xe buýt để đi chợ, phải thận trọng đi đứng giữa đám đông. Ba tôi phải canh chừng từng xu nhỏ khi sống ở đó. Họ tới đó tay không. Ở quê nhà thì tôi đi nhờ xe khắp nước Mỹ thực sự chẳng tốn đồng nào cả. Đó thực sự là những ngày khó khăn.

Dần dần hoàn cảnh thắt chặt thêm. Tiền không vào nữa. Tiền thuê nhà chồng chất. Ba tôi cứng rắn phản đối chuyện nợ nần. Thoanh toán chi phí là một phần liêm khiết trong lời chứng Cơ Đốc của ông. Tất cả chúng tôi đều muốn làm lời chứng đúng mức trong nếp sống cùng những giao tế làm ăn, cũng như trong sứ điệp mà chúng tôi dự tính phát thanh. Những phiếu thanh toán tiếp tục tới, và không có cách nào trả nổi.
Áp lực trở nên nghiêm trọng đến nỗi Ba tôi tự nắm quyền giải quyết. Một điện tín đến với tôi chỉ ba tháng sau khi Ba Mẹ tôi đến Tangier: “Paul à, nếu Ba Mẹ không nhận được khích lệ thực sự, được giúp đỡ thực sự trong tuần này, Ba đã sắp xếp bỏ cuộc việc phát thanh và trở về.”

Lòng tôi tan nát.

ĐÀI TIẾNG NÓI TANGIER
Vài câu chuyện dường như còn lạ hơn cả tiểu thuyết chỉ vì Đức Chúa Trời đã chen vào và đặt khuôn mẫu của Ngài trên cuộc đời chúng tôi. Tôi thường thấy rằng Đức Chúa Trời sẽ đưa Cơ Đốc nhân tới chỗ hầu như phải tan vỡ, hoặc tới một khủng hoảng tận cùng, rồi sau đó Ngài mới ra tay. Nhiều lần trong lịch sử công tác phát thanh của chúng tôi, tình huống dường như đang diễn tiến tới chỗ bế tắc, thì bỗng nhiên có câu trả lời ngay trước mắt tôi. Tôi tin rằng trình tự này không phải là ngẫu nhiên; tôi tin đó chính là cách hành động của Đức Chúa Trời trong quyền tể trị của Ngài. Tôi tin điều quan trọng trong mọi nhu cầu hằng ngày của chúng ta là cứ làm điều ở trong khả năng Ngài ban cho mình. Sau đó, khi mình đã hết cách, thì Đức Chúa Trời sẽ bước vào.

Hôm ấy là ngày Thứ Bảy - ngày cuối tuần mà Ba tôi đề cập trong điện tín. Lòng tôi thật nặng nề, tâm trí tê liệt. Tôi đã cầu nguyện hầu như liên tục xin Đức Chúa Trời làm một điều gì đó để cho phép “Đài Tiếng Nói Tangier” trở thành hiện thực. Chiều tối có tiếng chuông điện thoại. Đó là Tiến sĩ Charles Stevens, mục sư của Salem Baptist Church ở Winston-Salem, N. C. Ông ở cách chúng tôi khoảng hai mươi tám dặm và đang trên đường về hướng chúng tôi.

“Paul à, tôi sắp đi ngang qua thành phố anh, và không biết anh có thì giờ gặp tôi vài phút hay không. Tôi đi xe lửa Pullman lên miền bắc để mở một hội nghị về Kinh Thánh vào ngày Thứ Bảy.”

Tôi đón ông ở sân ga và nghe ông nói về những buổi họp ông phải tổ chức, về diễn tiến của trường họ, Piedmont Bible College, về tầm quan trọng của Chúa trong đời sống ông. Tôi là bạn tồi đối với ông lúc đó vì chẳng đóng góp được gì nhiều trong câu chuyện. Bóng tối - khi chúng tôi ra khỏi sân ga - là bức màn che thích hợp cho tâm trạng phiền muộn của tôi.

Bỗng nhiên tôi để ý điều Tiến sĩ Stevens đang nói với tôi: “Paul à, tôi tính chờ lúc về mới nói với anh điều này. Nhưng chẳng hiểu sao tôi lại cảm thấy tốt hơn là nên nói ngay bây giờ, trước khi tôi đi.”

Tiến sĩ Stevens có biết công việc phát thanh của chúng tôi đang bắt đầu tại Bắc Phi. Ông quen với Ba Mẹ tôi. Nhưng chắc chắn là ông không thể biết gì về khủng hoảng tài chánh chúng tôi đang đối diện.

“Tôi có cầu nguyện nhiều cho song thân của anh. Hình ảnh họ hiện ra trong lòng và trí tôi nhiều lần suốt tuần qua. Tôi quyết định đề cập họ với hội thánh tôi ngay khi đi họp về trong tuần này. Tôi hi vọng là Salem Baptist sẽ thực sự đảm nhận tài trợ toàn phần cho song thân anh.”

Lúc ông nói, tôi đang nhìn xuống mảng nước đá nằm trên những thanh nối ngang đường rầy xe lửa. Tôi ít dám ngẩng đầu lên trong khi ông nói tiếp.

“Tôi nghĩ là mình nên chờ sau khi xác minh vấn đề với ban trị sự hội thánh, nhưng tôi đã đề cập với họ rồi, và họ tỏ ra muốn giúp. Chúng tôi chưa chính thức hành động. Dường như Đức Chúa Trời đặt điều này trong lòng tôi, và ban trị sự hài lòng với ý kiến này. Tôi vừa chợt nghĩ là mình nên đề cập vấn đề với anh ngay tối nay thay vì chờ sau một tuần mới chính thức thông báo.”

Tôi cho tay vào trong áo khoác và lấy ra tấm điện tín đã từng gấp lại và mở ra nhiều lần của Ba tôi, đưa cho Tiến sĩ Stevens. Tôi chỉ có thể nói: “Ông sẽ không bao giờ biết được điều này có ý nghĩa biết bao đối với tôi!”

Ông nghiêng qua khoác vai tôi và đọc bức điện tín trong khi tàu lửa ầm ầm tiến vào nhà ga. Ông lắc đầu, nói với vẻ hoàn toàn kinh ngạc: “Chúa làm những việc diệu kỳ cho chúng ta!”

Nếu con người này của Đức Chúa Trời chờ một tuần mới cho tôi biết quyết định, thì hẳn đã quá trễ. Ba tôi chắc hẳn đã lên đường về nhà rồi.

Đây chính là người bạn do Đức Chúa Trời đưa tới để cùng đứng với chúng tôi khi hoàn cảnh bế tắc. Người này tiếp nối người khác - những người bạn thật - được Đức Chúa Trời dấy lên trên bước đường để chia sẻ với chúng tôi không chỉ lúc sự việc tươi sáng mà còn khi sự việc tối đen như mực nữa.
* * * * *
Một trong những trung tâm truyền giảng Phúc Âm trên lục địa Âu châu là Beatenberg, Thụy Sĩ. Chính từ nơi đó, lần đầu tiên tôi đến Tây Ban Nha, sáu năm về trước tiếp theo sau hội đồng Youth For Christ. Đó là nơi chúng tôi gặp Hermann Schulte lần đầu tiên. Sau đó, Đức Chúa Trời dẫn chúng tôi đến với những người sẽ là chủ chốt trong các ban tiếng Pháp và Nam tư, Rumani cùng nhiều ban khác, ngay tại cùng một địa điểm. Beatenberg là một làng nhỏ khuất lấp sâu trong vùng Alps Thụy Sĩ, khoảng hai ngàn bộ cao hơn Interlaken, nơi nghỉ mát quốc tế. Quanh năm, Bibelheim, một trường Kinh Thánh Âu châu với hiệu trưởng là Tiến sĩ Wasserzug, đào tạo sinh viên cho những chức vụ giữa vòng dân nói tiếng Đức trên khắp thế giới. Suốt mùa hè, đó là một trung tâm hội nghị Cơ Đốc - nơi lớn nhất trên lục địa, mở ra suốt mười tuần, với số đông các nhà truyền giảng Phúc Âm Âu châu tham dự. Điều hợp lý là chẳng sớm thì muộn, những Cơ Đốc nhân sốt sắng quan tâm rao truyền tin mừng của Chúa Giê-xu Christ qua làn sóng phát thanh, sẽ đến từ nhiều nước khác nhau khắp Âu châu qua ngôi làng nhỏ này.

Chúng tôi đặc biệt cảm động thấy nước Đức sẽ là nơi quan trọng để khởi đầu việc phát thanh càng sớm càng tốt. Chúng tôi đã thường xuyên cầu nguyện xin Đức Chúa Trời dẫn chúng tôi đến với những con người thích hợp, không chỉ là những người có thể cùng đứng với chúng tôi về mặt tài chánh, mà còn là những người sẽ không chịu thỏa hiệp trong việc ủng hộ sứ điệp của Phúc Âm nữa.

Từ lâu trước lúc đa số người khác quan tâm, đã có một người tại Đức quan tâm sâu sắc tới việc truyền thanh Phúc Âm, tới mức anh ta cùng với vài người bạn đã mua số thì giờ bên lề chương trình Phát thanh của Luxembourg. Thực sự đó là thời gian rất tồi tệ. Nhưng cũng đủ làm thí dụ để thuyết phục Hermann Schulte trong việc dùng làn sóng phát thanh đem Lời Đức Chúa Trời đến với hàng triệu người.

Ngay khi nghe hội nghị về “Đài Tiếng Nói Tangier”, ông này liên lạc với Ba tôi tại Beatenberg. Thật lạ lùng là Chúa đã cảm động ông về nhu cầu giúp đỡ. Hermann Schulte hưởng ứng gánh nặng cùng khải tượng của chúng tôi vào lúc chúng tôi cảm thấy mọi việc cần được hoàn tất chồng chất tới mức bản thân chúng tôi là con người không thể nào làm được. Theo cách lạ lùng, ông đã qui tụ được nhiều cấp lãnh đạo cùng thương gia Cơ Đốc nổi bật tại Đức chung quanh chủ đề trọng tâm là làm chứng qua phát thanh.

Ngay từ lần đầu gặp gỡ Hermann Schulte, chúng tôi có ấn tượng ngay đây là một người rất quen thân với Chúa. Có vẻ như ngay từ đầu, người này đã biết cách giúp chúng tôi cất dở gánh nặng. Qua những đối thoại đầu tiên, chúng tôi biết ngay ông sẽ không nói: “Thôi bây giờ các ông cứ đến giúp chúng tôi. Chúng tôi chắc chắn rất vui được các ông thực hiện một loạt chương trình phát thanh cho đồng bào chúng tôi.”
Đây chính là con người - theo ý Đức Chúa Trời - sẽ nói: “Tôi sẽ thực sự mang lấy gánh nặng và cùng nhấc gánh nặng với các ông.”

Tôi nhớ niềm an ủi lớn lao khi đột nhiên nhận ra rằng ngay tại một trong những vùng mục tiêu quan trọng nhất của chúng tôi tại Âu châu có những Cơ Đốc nhân quan tâm giúp đồng bào mình. Sự hiện diện của mối quan tâm bản xứ như vậy cho chúng tôi lợi thế thành công trong dự án - hơn rất nhiều so với nhiệt tình bên ngoài của chúng tôi đổ vào một thính giả chưa sẵn sàng có thể đạt được.

Ngay tại điểm này tôi bắt đầu nhận biết Đức Chúa Trời không chỉ đang mở cửa. Ngài cho chúng tôi những người sẽ cùng đứng vào chỗ trống với chúng tôi, những con người biết cách giúp chúng tôi cất dở gánh nặng. Khích lệ lớn nhất chính là khi chúng tôi hiểu rằng Đức Chúa Trời có những người của Ngài rải rác khắp Âu châu - những người Ngài sẽ đụng đến khi Ngài muốn dùng họ - những người hoàn toàn tận hiến cho Ngài. Qua suốt công việc, tôi có thể nhìn lại và thấy những con người làm việc ở đây, ở đó, và ở đàng kia. Chẳng phải là số đông trong bất cứ nơi nào. Nhưng vì tận hiến cho việc làm chứng Phúc Âm giữa vòng đồng bào mình, những con người chủ chốt này qui tụ quanh mình những người khác chịu học hỏi tìm hiểu công việc phát thanh.

Ruben Lores, một trong những người cùng chia sẻ trong buổi nhóm cầu nguyện đầu tiên nhìn ra eo biển, đã đảm nhận chương trình nói tiếng Tây Ban Nha ngay. Ngoài nhiệm vụ thường lệ là mục sư của hội chúng Tây Ban Nha địa phương tại Tangier, ông cũng là thành viên bán thời gian trong ban phát thanh ngay khi chúng tôi chuẩn bị lịch phát thanh vào Tháng Hai 1954. Khi kế hoạch của ông thay đổi, buộc ông trở về bản xứ Cuba, chúng tôi nhận ra là mình phải đối diện với việc tìm người thế chỗ trong chính trọng tâm của công tác.

Ba tôi dự tính vào vùng lục địa lần đầu tiên kể từ khi hoạt động của chúng tôi bắt đầu, và ông để lại đài, tên của vài giáo sĩ tại Tây Ban Nha cũng như chỗ khác, là những người có thể giúp chúng tôi những lời đề nghị.

Đến Beatenberg, ông thấy chương trình của Chúa được bày tỏ cách bất ngờ hơn hết. Ba tôi kể lại cách Đức Chúa Trời điều khiển thậy kỳ lạ:

“Tôi đang nói chuyện với một thương gia tiếng tăm và mời ông cùng với tôi cầu nguyện xin một người nói tiếng Tây Ban Nha giúp cho ‘Đài Tiếng Nói Tangier.’
“Ngày hôm sau, ông nói là ông nghĩ có người có thể giúp cho công tác của Tây Ban Nha. Ông có quen một cặp vợ chồng trẻ, gia đình Valbuenas, tốt nghiệp Trường Kinh Thánh Lausanne, Thụy Sĩ, gần nhà ông. Ông biết họ từ nhà ở Barcelonia theo học ở đó. Dù sao tôi cũng đang tới đó để kiếm người, bởi lẽ nhóm theo phái Phúc Âm đông nhất tại Tây Ban Nha đều tập trung tại Barcelonia. Chắc chắn đây là sự lãnh đạo đáng tìm kiếm.

“Khi tôi hỏi về Sr. Valbuena ở Barcelona thì được biết ông đang ở Canada trong ba tháng, dạy Kinh Thánh tại Quebec. Phản ứng đầu tiên của tôi là : ‘Vậy thì thôi!’ Sau khi tìm quanh một hồi, tôi không thấy có ai khác có vẻ đủ điều kiện như vậy.

“Tàu lửa phải rời thành phố lúc 1 giờ chiều. Sáng hôm ra đi, tôi có ấn tượng mạnh mẽ rằng mình phải tìm gặp vợ ông ấy. Chỉ một lần viếng thăm ngắn ngủi, tôi đã có ấn tượng thật thuận lợi về Maria Valbuena, và nói cho bà ấy biết lý do tôi đến Barcelona. Khi tôi từ giã, bà ấy hứa: ‘Tôi sẽ viết thư cho Miguel tại Canada, nói cho ông ấy về nhu cầu của ông.’

“Khoảng mười ngày sau, chúng tôi nhận được thư từ Miguel Valbuena ở Canada: ‘Tôi đã cầu nguyện nhiều cho chức vụ tương lai của mình. Tôi nay đang ở Quebec chỉ để thăm thôi. Chúa đã tác động tôi suy nghĩ rằng tôi không nên làm việc cá nhân tại Tây Ban Nha, nhưng Ngài cần tôi trong một chức vụ rộng lớn hơn. Tôi không biết chức vụ đó sẽ là nơi nào. Khi thư tới, tôi cảm thấy ngay rằng “Đài Tiếng Nói Tangier” là câu trả lời cho tôi.’”

Đầu năm 1955, Miguel và Maria Valbuena cộng tác với chúng tôi tại Tangier. Chẳng những ông ấy đã triển khai một chức vụ mở rộng lớn lao giữa vòng những người nói tiếng Tây Ban Nha ngoài chương trình riêng của ông ta, nhưng ông cũng làm nhiều việc để triển khai những khóa học Kinh Thánh khắp Tây Ban Nha. Maria đưa ra một thời khóa biểu đa dạng về những sinh hoạt có liên quan giữa vòng trẻ em ở Tangier, như là phần cuối cho những chương trình phát thanh cực kỳ hiệu quả dành cho trẻ em.

Tiếp theo những khởi điểm trong tiếng Tây Ban Nha và Đức, chúng tôi có thể xúc tiến những chương trình phát thanh cho Nam tư và Rumani nhờ những tiếp xúc cũng tại Beatenberg. Ba tôi đã được mời nhiều lần dành cả mùa hè chia sẻ tại hội nghị. Một lần nọ ông làm quen với Tiến sĩ Josef Horak, một viên chức chính phủ nổi tiếng trong bộ kinh tế Nam tư. Ông cũng là chủ tịch của Hiệp hội Báp tít Nam tư; nhưng quan trọng hơn, ông là người thật sự của Đức Chúa Trời. Ngay sau đó tôi đi Zagreb, Nam tư, nơi người trẻ cũng như già đều vô cùng sốt sắng về việc truyền thanh cho người khác. Chuyến viếng thăm này là khởi điểm của mối liên kết thực sự của tấm lòng với người dân Nam tư.

Trong một xứ chủ yếu là Chánh thống Hi lạp, và một phần là Hồi giáo, dường như đây là một viễn tượng thành công để nghĩ đến việc gia tăng chức vụ của một tá rưỡi nhà thờ phái Phúc Âm qua sự quan tâm của người này. Tiến sĩ Horak bắt đầu ghi âm cho chúng tôi bằng tiếng Croatia-Serb, và cô con gái lớn của ông hát cho chương trình phát thanh. Các kỹ sư của chúng tôi có thể đi vào Nam tư và đi vòng quanh với Tiến sĩ Horak, ghi âm những ca đoàn cùng sứ điệp của nhiều mục sư. Cuối cùng chúng tôi cung cấp cho ông máy ghi âm bán chuyên nghiệp, và ông đã ghi âm nhiều sứ điệp ngay tại nhà mình. Sau đó những băng ghi âm này được gửi tới chúng tôi để truyền lại cho dân tộc ông tại Nam tư qua hệ thống làn sóng ngắn của “Đái Tiếng Nói Tangier.”

Một tiếp xúc khác tại Beatenberg mở cửa cho những chương trình phát thanh được phát sóng vào Rumania. Ông Hodoroaba, một nhà truyền đạo Báp tít tại Rumania, trốn khỏi nước vài năm trước, sang Pháp và tổ chức dân tị nạn Rumania thành một hội chúng Báp tít tại ngoại ô Paris. Một người nhiệt tình tự nhiên, ông lấy làm phấn khởi về đài của chúng tôi ngay khi nghe tin: “Tôi muốn nói trên đài của anh!”

Với sự trợ giúp của bạn hữu tại Đức là những người ủng hộ chức vụ phát thanh của mình, ông trở thành một phần thường xuyên trong chức vụ của “Đài Tiếng Nói Tangier” - cả qua sứ điệp lẫn âm nhạc của ca đoàn hội thánh ông.

Trong trường hợp cả hai chương trình Nam tư và Rumania, chúng tôi thấy đã đến được với nhiều thính giả trước kia từng sống sau Bức Tường Ngăn Cách. Các chương trình tiếng Rumania được phát sóng không chỉ cho nước họ, mà còn cho Tây Âu, nơi có nhiều dân tị nạn. Qua nhiều thư từ gửi tới chúng tôi, cùng những bạn hữu tới đem theo báo cáo, chúng tôi nhận được những câu chuyện tán thưởng ý nghĩa của chương trình phát thanh đối với họ. Những nhóm lớn - không phải chỉ ba hoặc bốn hoặc một chục - tụ tập trong nhà để nghe chương trình phát thanh.
Khởi đầu nhỏ với vài lối thoát về ngôn ngữ như thế, công việc tiếp tục phát triển cho tới khi có những chương trình phát thanh theo hai mươi bốn nhóm ngôn ngữ khác nhau. Năm 1956 máy phát sóng cũ được thay thế bằng máy10.000 watt và ngay sau đó, máy phát sóng 10.000 watt thứ hai tăng gấp đôi công suất mới. Hệ thống ăng ten đơn giản cũ mỗi lúc càng phức tạp hơn, khi chúng tôi phát sóng những chương trình đặc biệt cho hầu hết mọi nước tại Âu châu, Bắc Phi, Trung Đông, và sau Bức Tường Ngăn Cách.

Cùng với mối quan tâm gia tăng trong việc phát thanh Phúc Âm bởi những nhân sự Cơ Đốc trong nhiều nước khác nhau của Châu Âu, là nhu cầu cấp bách cần một ban giáo sĩ điều hành thích hợp để thực hiện công tác kỹ thuật, quản trị và văn phòng của “Đài Tiếng Nói Tangier.”

Vào những ngày đầu thời đó tôi thấy khó tìm ra đám trẻ đăng ký phục vụ làm giáo sĩ. Đa số họ chưa hề nghe “Đài Tiếng Nói Tangier,” còn các hội thánh thì chậm chạp trong việc cam kết hỗ trợ một tổ chức giáo sĩ mới. Nhưng chính trong việc này Chúa cũng đã có cách diệu kỳ riêng của Ngài để đột phá sự bế tắc này.

Tại Tangier, Ba Mẹ tôi hằng ngày cầu nguyện xin giúp thêm giáo sĩ. Tôi viết cho Ba tôi, nói rằng trước mắt chẳng có ứng viên nào cả. Một hôm Ba tôi nhận được thư của Anna Lee Erickson, một trong những sinh viên rất nhiều hứa hẹn tại Viện Canadian Bible Institute ở Regina lúc Ba tôi còn dạy ở đó và Mẹ tôi là Chủ nhiệm khoa của Nữ sinh viên.

Thư của Anna Lee đại khái như sau: “Qua chức vụ của ông tại Regina, mỗi lúc tôi càng mang gánh nặng về truyền giáo. Tâm trí tôi cứ trăn trở mãi là nên đăng ký vào đoàn thể truyền giáo rộng lớn nào. Không hiểu sao, tôi cứ nghĩ là mình nên phục vụ Chúa trên đồng truyền giáo với gia đình ông Freed hơn bất cứ nơi nào khác. Ông có thể dùng tôi không?” Vì đã biết rõ Anna Lee trong ba năm, nên song thân tôi trả lời ngay cùng ngày: “Chấp nhận.” Tôi tin đây là tiến trình xin việc nhanh nhất trong lịch sử của Chương Trình Phát Thanh Xuyên Thế Giới.

Theo cách diệu kỳ của Đức Chúa Trời, điều này đã thay đổi xu thế, và chẳng mấy chốc, đơn xin việc bắt đầu dồn dập. Lúc đầu chính cá nhân tôi giúp gây quỹ hỗ trợ. Cuối năm năm đầu hoạt động ban điều hành hiện trường truyền giáo của chúng tôi tại Tangier từ hai lên tới hai mươi sáu nhân viên.

Tangier là mặt trận tốt để chúng tôi hoạt động, và nhu cầu về phòng phát thanh cùng giấy phép để nâng cao thêm công suất thiết bị phát thanh giúp chúng tôi lập kế hoạch trước. Điều có vẻ lạ là ngân qũy dự trù cho Tangier không tới. Chúng tôi không hiểu tại sao, nhưng hầu như ngay từ đầu chúng tôi đã tìm kiếm trước những địa điểm trên lục địa.

ĐƯỢC THĂNG TIẾN
Mùa xuân năm 1957, khi từ Mỹ sang Moroco, tôi chẳng có lý do gì để cảm thấy có vấn đề. Mọi việc đều ổn thỏa tại đài Tangier. Nhiều người đang nghe chương trình của chúng tôi phát thanh bằng hai mươi bốn thứ tiếng. Nhưng hầu như trong tiềm thức, Chúa khiến tôi thấy là mình phải xem xét những khả năng để mở địa điểm phát thanh trong lục địa.

Đêm hôm trước khi phải trở về Mỹ, tôi cùng Ba Mẹ chạy xe ở phố Tangier. Chúng tôi đã dừng xe trước Bệnh viện Truyền giáo Bắc Phi để nói chuyện và cầu nguyện - như chúng tôi đã từng làm nhiều lần trước đây - xin Chúa dẫn bước chúng tôi. Chẳng suy nghĩ gì nhiều, tôi nói: “Có lẽ con sẽ về lại Greensboro theo đường Monte Carlo.”
Vừa khi nói lớn như vậy, tôi chờ đợi nghe: “Con ơi, vậy là sai chương trình rồi. Không nên làm vậy.”

Thế nhưng ngược lại, tôi nghe Mẹ nói: “Paul à, Mẹ nghĩ có lẽ con nên tới Monte Carlo. Mẹ tin là Đức Chúa Trời thực sự có trong sự việc này.”

Tôi ngạc nhiên là Ba tôi cũng cảm thấy Đức Chúa Trời đang dẫn dắt theo hướng đó. Niềm xác tin trọn vẹn của họ về sự hướng dẫn của Chúa luôn luôn là nguồn khích lệ lớn cho tôi. Họ không bao giờ do dự khi quyết định. Lúc đã biết chắc Đức Chúa Trời dẫn dắt mình, thì không còn lựa chọn, không còn bàn cãi nữa. Qua nhiều kinh nghiệm tôi tin chắc rằng Đức Chúa Trời không có hai phương hướng cho đời sống chúng ta. Vấn đề chỉ là tìm biết đường lối Ngài, rồi hành động theo đó.

Cả ba chúng tôi lại cầu nguyện. Và sáng hôm sau - vô cùng nôn nóng - tôi chuyển từ chuyến bay New York City sang chuyến bay về hướng Monte Carlo. Nhiều lần trong những ngày trước mặt, tôi phải nhìn nhận lần gặp nửa khuya đêm đó là chứng cớ hướng dẫn chắc chắn của Đức Chúa Trời.

Tại đài, ông E. Bosio , người điều hành đài Phát thanh Monte Carlo, đón tiếp tôi. Ông biết rõ công việc chúng tôi tại Tangier, và khen chúng tôi về công việc phát thanh tốt. Ông đưa tôi lên đỉnh núi nơi đặt những máy phát sóng. Và khi chúng tôi nhìn khắp thành phố, tôi dò ý ông về tính khả thi của việc chúng tôi dời về Monaco, và làm việc qua giấy phép của họ, dựng một máy phát sóng cho chương trình phát thanh Cơ Đốc toàn thời gian. Chúng tôi đề cập loại ăng ten định hướng cần thiết để đến với vùng đó trên thế giới. Sau đó, khi cuối cùng bàn về khả năng tìm một số nhân viên cho đài, thì tôi thấy họ đáp ứng rất tích cực. Họ cũng quan tâm vào thời điểm đó, tôi không nên công khai sự đáp ứng của họ, mà chỉ tiếp tục liên lạc và cùng nhau thận trọng hoạch định thêm chi tiết.

Vào hè thì công việc ở Tangier tiến triển êm xuôi đủ để Ba Mẹ tôi thực hiện chuyến về nghỉ tại Hoa Kỳ rất xứng đáng với họ. Trên đường về Mỹ, họ quyết định ghé qua công quốc bé nhỏ Monaco. Tôi tự hỏi không biết Mẹ tôi có nghi ngại gì không, khi bà thực sự nhìn thấy Monte Carlo trong toàn cảnh quyến rũ như thế. Tôi chắc chắn phản ứng của bà sẽ là: “Cảnh có phần hơi quá tuyệt vời!”

Ba Mẹ tôi đăng ký vào Khách sạn Majestic hướng ra bến cảng. Ba tôi kể lại, Mẹ tôi ngắm cảnh rồi nói: “Ralph à, em cảm thấy mạnh mẽ rằng Chúa đang ở trong toàn bộ sự việc này.”

Vào tháng Chín 1957, tôi tới nhà em gái tôi là Ruth, ở Ringwood, New Jersey. Betty Jane và tôi đang trong tiến trình chuyển cả gia đình cùng trụ sở của chương trình Phát Thanh Xuyên Thế Giới từ Greensboro, North Carolina, tới vùng New York - để tiện hơn cho các giáo sĩ tới lui. Vào lúc Ba Mẹ tôi về tới thì chúng tôi đang sống gần Ruth với chồng là Armstrong, hiện đang chủ tọa Hội thánh Cộng đồng tại Ringwood. Thật là tuyệt vời khi tất cả chúng tôi được gặp nhau - Ba Mẹ, con cái và các cháu. Một trong những buổi ăn mừng của chúng tôi là kỷ niệm bốn mươi năm đám cưới của Ba Mẹ, ngày mươì bốn tháng Mười Một. Ba tôi vui có dịp mua quà nhỏ làm vui lòng người yêu của ông. Tất cả chúng tôi đều có thể thấy niềm vui trong cuộc sống chung của họ. Rõ ràng là họ thắm thiết yêu nhau, và mỗi người quan tâm hiểu nhau và làm vui lòng nhau.

Lúc đầu Ba tôi đi giảng, có vắng nhà đôi chút, nên tôi có cơ hội ở nhà với Mẹ - chỉ có hai mẹ con. Tôi còn nhớ vẻ biết ơn thầm lặng của bà, niềm vui sâu xa nhìn thấy đứa con thứ tư của chúng tôi là Stevie được tám tháng vào lúc đó. Một hôm trong vườn nhà chúng tôi, mẹ tôi ngồi trên ghế nơi sân cỏ ngước nhìn tôi, nói với ý nghĩa sâu xa: “Paul à, Chúa làm mọi việc thật tốt đẹp.”

Vào khoảng giữa tháng Mười Một, tôi hẹn giảng tại the Church of the Open Door ở West Coast. Vài bạn đem xe tới đưa tôi ra phi trường. Tôi chào từ biệt gia đình, thì có chuyện lạ xảy ra. Tôi chỉ đi có bốn hoặc năm ngày thôi, nhưng bỗng nhiên cảm thấy thôi thúc mãnh liệt muốn nói chuyện với mẹ tôi. Tôi xin lỗi mọi người, bước vào phòng mẹ tôi, và làm một việc mà tôi chưa hề làm theo cách đó trước đây. Mẹ con tôi vẫn thường rất gần gũi nhau, nhưng lần đầu tiên trong đời tôi - chẳng có lý do nào rõ ràng - tôi để ra khoảng mười phút nói với mẹ rằng tôi yêu mẹ ra sao, ảnh hưởng của mẹ có ý nghĩa biết bao trên cuộc đời tôi. Bà bắt đầu khóc. Nhưng tôi muốn mẹ biết cuộc đời của bà là nguồn cảm hứng lớn lao cho tôi, bà thật dịu dàng với tôi, và tôi cứ tiếp tục nói. Tôi nói với mẹ là tôi rất vui ba mẹ đã trở về Mỹ, và tôi mong chờ được có mẹ bên cạnh suốt năm. Tôi nhớ đã lau nước mắt cho mẹ, và hôn từ biệt mẹ. Rồi tôi vội vã ra xe và đi phi trường, và chẳng bao lâu đã tới bên kia bờ lục địa, ở Los Angeles.
Vì Ba Mẹ tôi về nghỉ ngơi cũng như để nói cho các hội thánh điều Chúa đang làm qua “Đài Tiếng Nói Tangier,” cho nên họ quyết định tốt nhất là nên thuê một nơi ở riêng suốt cả năm.

Trong khi tôi đi vắng, nhân viên nhà đất cho họ xem một căn nhà nhìn ra hồ. Giá cả phải chăng và ngôi nhà có vẻ xinh xắn. Mẹ tôi giống như một bé gái có được búp bê mới.

“Ralph à, biết đâu Chúa lại cho mình có được nơi nhỏ bé xinh xắn này thì sao nhỉ?”
Ánh mắt bà long lanh khi song thân tôi đi bộ khoảng mười lăm phút về nhà Ruth. Bà có vẻ mệt mỏi, nhưng cứ luôn miệng nói cám ơn Chúa vì có được căn nhà riêng xinh xắn. Chúa thật nhân từ biết bao!

Ba tôi để ý thấy mẹ tôi bước chậm hơn bình thường, nhưng bà chỉ mỉm cười nói: “Tôi chỉ mệt thôi.” Trong bữa ăn trưa, họ nói chuyện về căn nhà, và thích thú đề cập chuyện trang hoàng nhà. Mẹ tôi vô cùng biết ơn Chúa về sự nhơn từ của Ngài khi kể lại cho Ruth và Ben việc gặp nhân viên nhà đất hồi sáng, và mô tả việc tìm ra căn nhà nhỏ trên bờ hồ - giống như ngôi nhà trong mộng.

Chiều hôm ấy bà than đau, cộng thêm cảm giác đau bao tử. Bà giải thích, lại khó tiêu nữa rồi, và ra ngoài dạo quanh nhà. Trong mấy năm qua, bà đã bị như thế nhiều lần, nhưng lần này khi bước vào nhà, cơn đau trở nên nặng hơn, và lan qua vai cùng cánh tay trái.

Hồi còn ở biên giới Ả Rập, gia đình chúng tôi đã nhiều lần trông đợi Chúa khi không có bịnh viện cũng chẳng có tiệm thuốc. Chúng tôi không có thói quen mời bác sĩ ngoại trừ bị ốm nặng. Buổi chiều đặc biệt này tại New Jersey, Mẹ tôi tin chắc mọi chuyện sẽ bình thường. Nhưng khi Bác sĩ Duff Brown nghe về cơn đau nơi ngực cùng cánh tay bà thì khuyên nên mời bác sĩ chuyên khoa tim và nên đưa bà đi bịnh viện ngay.

Ben cùng đi trong xe cứu thương với bà tới bịnh viện ở Montclair. Sau này anh nói với tôi là lúc ấy bà vẫn nghĩ là vấn đề tiêu hóa. Cơn đau có thuyên giảm và bà không thấy khó chịu lắm. Họ cười đùa với nhau khi xe bật đèn đỏ bí hiểm luồn lách trong bóng đêm. Thực sự cả nhà đều cho là bác sĩ quá mức thận trọng khi đề cập khả năng bị bịnh tim của bà; sức khỏe bà đang thật là tốt.

Khi xe cứu thương vào tới cổng cấp cứu tại Bịnh viện Mountainside thì đã tám giờ tối. Ben lo ổn định chỗ cho bà qua đêm xong mới về nhà. Ba tôi thức chờ báo cáo trực tiếp đầu tiên. Nhưng sau khi nghe bà khá dễ chịu, thì ông quyết định đi nghỉ để chuẩn bị vào thăm bà lúc sáng sớm.

Khi tôi trở về khách sạn tại California sau buổi nhóm, trên bàn có giấy nhắn gọi cho tổng đài ở New Jersey. Khi nối xong đường dây liên lạc, vợ tôi báo là có tin khó nói: “Mẹ bị suy tim, Paul à. Nhưng bác sĩ nói bà khỏe lắm rồi.”

Thật là cú sốc nặng nề cho tôi. Lúc lần lữa từ biệt tôi không mảy may nghĩ tới vấn đề gì. Tôi nghĩ tới nhiều lần khác Đức Chúa Trời thực sự đã gặp mẹ tôi. Một lần nọ tại Trung Đông, Ngài đã làm phép lạ đỡ bà dậy khỏi tình trạng giống như là phút lâm chung. Tôi tin chắc là Đức Chúa Trời sẽ cho bà ở với chúng tôi chừng nào mà Ngài còn cần tới bà tại nơi này. Trước đây đã có nhiều lần tôi nghĩ tới việc bà qua đời. Tôi biết bà sẽ ra đi khi Chúa muốn bà đi, nhưng tôi thấy lòng nặng nề lúc gác máy điện thoại. Tôi bước ra đường vào quãng trường. Tôi cầu xin Đức Chúa Trời bày tỏ ý muốn Ngài trên đời sống bà như Ngài đã làm suốt nhiều năm nay. Khoảng 2 giờ sáng tôi trở về phòng và ngủ thiếp đi. Mới bốn giờ sáng, tôi bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại chói tai.

Giọng Betty Jane nghe thật gần khi nàng nói: “Anh yêu, anh có bình tĩnh không đó? Mẹ vừa từ giã chúng ta về với Chúa rồi, Paul à.”

Dù rằng câu nói của Betty Jane là cú giáng khủng khiếp khiến tôi sững sờ, nhưng tôi vẫn nghe giọng Mẹ vang bên tai: “Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta, Paul à. Và Ngài làm việc đó theo cách riêng của Ngài.”

Cái chết đột ngột của bà cũng khiến bác sĩ phải kinh ngạc. Bác sĩ chuyên khoa tim được mời vào ngay. Mẹ tôi đã ngủ ngon và ăn sáng. Các biểu đồ theo dõi bà trong thời gian ngắn ở bịnh viện cho thấy bà vẫn khỏe. Mọi thứ có thể làm đã được hoàn tất. Nhưng sau bữa điểm tâm, khi bình thường Mẹ vẫn đi tới đi lui, thì y tá nghĩ là có sự yên lặng bất bình thường. Cô ta mở cửa phòng để kiểm tra thì thấy Mẹ đã lặng lẽ qua đời. Đây là cơn suy tim thứ hai.

Ba tôi thường nói: “Mẹ con là tấm gương và nguồn cảm hứng lớn cho ba, đặc biệt trong những lúc thử thách, ba biết phản ứng của mẹ là không nhìn lui, mà là nhìn tới để học điều Chúa muốn dạy chúng ta qua kinh nghiệm của mình. “Được ở với Đấng Christ là điều tốt hơn rất nhiều’ giống như một loại dầu thơm xoa dịu lòng đau đớn của ba. Câu này là niềm an ủi lớn, và ba thường xin Đức Chúa Trời cho ba ân sủng để biết rằng điều đó là tốt hơn cho mẹ rất nhiều.”

Mẹ tôi lúc nào cũng nghĩ tới người khác. Bà là loại người hoàn toàn quên mình. Cả cuộc đời bà có thể được thu gọn trong từ “cầu nguyện.” Lúc nào bà cũng lo cho Ba tôi, và gia đình, và công việc phát thanh, không bao giờ lo cho mình. Về sau chúng tôi được biết là chỉ vài phút trước khi qua đời bà đã nói về ơn lành của Chúa trên chức vụ phát thanh tại Tangier.

Vào tám giờ cùng buổi sáng đó (giờ California) tôi đang trên máy bay từ Los Angeles trực chỉ hướng đông về với gia đình. Suốt chuyến bay, sự thực hữu của những điều tôi từng giảng biết bao nhiêu lần tại nhiều nước lại đến với tôi. Lần đầu tiên trong đời, cá nhân tôi kinh nghiệm được sự thực hữu của sự kiện vinh quang ấy là sẽ có ngày tôi gặp lại Mẹ, mặt đối mặt. Tôi tin chắc điều này môt trăm phần trăm khi bay ngang bầu trời và xem xét lại toàn bộ ý nghĩa món quà cứu rỗi của Đức Chúa Trời cùng sự sống đời đời qua Chúa Giê-xu Christ. Gặp Ngài và gặp Mẹ tôi một ngày kia đã trở thành một thực tế và chắc chắn tuyệt đối trong trí lẫn trong lòng tôi.

Dù bị chết lặng với tin sửng sốt đó, nhưng đồng thời tôi cũng có thể hiểu vài điều cách rõ ràng không thể lầm lẫn được. Tôi không thể chỉ nghĩ đến sự mất mát thể xác. Tôi không thể loại trừ Đức Chúa Trời ra khỏi sự thật là mẹ tôi đã chấm dứt cử động nói năng theo chiều của chúng ta. Mẹ tôi đã liên tục sống với Chúa. Và mọi người quen biết đời sống ngọt ngào của bà đều nhận biết đó là kết quả của mối liên kết giữa bà với Ngài. Việc bà xa cách tầm với của chúng ta không phải là kế hoạch của con người - đó là kế hoạch của Đức Chúa Trời để đưa bà vào trong hiện diện với Ngài.
Chúa đã giúp tất cả chúng tôi khi trải qua mọi khó khăn mà mọi người phải đối diện lúc chết. Tại New Jersey chúng tôi chưa quen biết nhiều, nhưng chúng tôi mong ước tìm được người đủ thân với chúng tôi và thực sự yêu Chúa để làm lễ tang. Tiến sĩ Charles Stevens, người mà Đức Chúa Trời sai tới đáp ứng nhu cầu của chúng tôi trong cơn khủng hoảng tài chánh những ngày đầu tại Tangier, xuất hiện trước tiên trong trí tôi. Tôi gọi điện cho ông tại Winston-Salem, N. C., ông vừa trở về sau một loạt hội họp đặc biệt tại Florida. Ông rất mệt, nhưng ông muốn chia sẻ với chúng tôi trong cơn đau buồn theo bất cứ cách nào có vẻ là tốt nhất. Tôi hỏi ông có thể đến làm lễ tang được không, thì ông nói: “Tôi xem đó là đặc ân.”

Ông biết rõ cả Ba Mẹ tôi. Thật sự, chính hội thánh ông đã hỗ trợ cho Tangier. Ông đã đi sáu trăm dặm hôm ấy để giúp chúng tôi, và tôi không bao giờ có thể nói hết được ý nghĩa sự hiện diện của ông. Đích thân ông chỉ nói với tôi có vài lời, và trong chính buổi lễ, mối liên kết gần gũi vốn ràng buộc Cơ Đốc nhân với nhau, thật hiển nhiên cách nồng nàn và chắc chắn.

Mẹ tôi không hề trở về trong suy nghĩ hoặc giấc mơ của tôi theo cách dị thường hoăc kỳ lạ. Trí và lòng tôi liên tục tin tưởng tuyệt đối rằng mẹ tôi không còn ở đây nữa, vì bà đang ở với Chúa. Tôi không biết những người khác sẽ làm gì, nhưng tôi thì có trở lại nghĩa trang hai hoặc ba lần kể từ ngày tang lễ của bà. Không phải là tôi cố tình tránh né. Tôi có thể đi bất cứ lúc nào. Nhưng Mẹ tôi đâu có ở đó, bà đang ở với Chúa.
Mặt khác, mẹ tôi hiện nay vẫn là một thực hữu sống động như khi bà còn sống ở đây. Bước đi giữa bà với Chúa, vinh quang của cuộc sống hằng ngày với Ngài, đều là những thực tại có thực đối với tôi ngày nay. Cuộc sống của bà vẫn tiếp tục với tôi; cùng một lúc bà đang ở với Chúa, nơi mà chúng tôi sẽ cùng sống với bà sau này. Với sức mạnh khó tin, kinh nghiệm này về sự chết giúp tôi biết thực tại đích thật của sự sống, sự sống đời đời của chúng ta qua Chúa Giê-xu Christ

Tôi không có cảm giác: “Bây giờ tôi không sống được nữa - cuộc sống đã mất hết tất cả.” Cuộc sống chẳng mất gì đối với tôi. Chính ngày Chúa nhựt sau đó tôi đã có thể giảng tại hội thánh có hẹn trước, và cảm thấy đó chính là nơi bà muốn tôi tới. Mẹ tôi muốn chúng tôi cứ tiếp tục nói cho mọi người biết về cùng một Đức Chúa Trời mà bà đã biết và yêu mến.

Tôi nhớ có lần Mẹ đến với tôi sau khi nghe tôi đề cập bà như một minh họa trong bài giảng. “Con Paul à, bây giờ con phải để ý một chút. Đừng có đề cập mẹ trong bài giảng. Chỉ đề cập Chúa Giê-xu Christ thôi.”

Tôi yêu mẹ sâu sắc, và tình yêu chúng tôi kinh nghiệm được đã biến thành sức mạnh cho cuộc sống hằng ngày kể từ khi bà qua đời.

Có lẽ sự chết dạy chúng ta một bài học trong sự quân bình của nếp sống Cơ Đốc - quân bình giữa việc biết rằng mình là những tạo vật được tái sanh trong thế giới thuộc linh, với việc biết rằng chúng ta là những con người đang sống trong sự hiện hữu trần thế mỗi ngày. Việc chúng ta nhấn mạnh vào sự sống đời đời cùng hi vọng của chúng ta trong Đấng Christ phải bao gồm mối quan tâm thành thật muốn sống trọn vẹn tại nơi mình đang sống. Cả cuộc sống thường ngày ở trần gian lẫn thực tại vinh quang của quyền công dân thiên quốc của chúng ta đều là những sự kiện cơ bản trong Kinh Thánh. Cuộc sống của Mẹ giữa vòng chúng tôi minh chứng quá rõ rằng cả hai điều đó là những nhấn mạnh chủ yếu trong nếp sống Cơ Đốc quân bình.
Nhờ biết được địa vị của mình với Đức Chúa Trời là chắc chắn và bảo đảm một trăm phần trăm trong Chúa Giê-xu Christ, nên bà mới có được sức sống dư dật trong thời biểu hằng ngày, bất cứ bà sống nơi đâu. Cuộc đời của bà là cuộc đời vươn lên Chúa, và vươn ra những người cần có Ngài.

Betty Jane sau này tâm sự với tôi rằng nàng tự hỏi có thể cái chết của Mẹ là nguyên nhân làm chậm lại hoặc ngưng trệ toàn bộ công việc hay không.
Nàng cười, nói tiếp: “Tuy nhiên, trong lòng em vẫn biết là không phải như vậy đâu, Paul à.”

NHỮNG ĐỐI ĐẦU MỚI
Một trong những điều Mẹ tôi muốn tôi có đó là bằng tiến sĩ. Chẳng phải là tôi không muốn lấy, đúng hơn là vì có một điều khác lúc nào cũng chiếm chỗ ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch của tôi. Giờ thì Mẹ đã ra đi, ký ức về ao ước của bà đối với tôi tạo nên lực thúc giục mà tôi đang cần để đẩy nhiệm vụ này lên đầu bảng danh sách. Tuần lễ sau khi bà qua đời, tôi bắt đầu lăn bánh và thực sự tham dự một trong những kỳ thi lớn nhất trong chương trình Tiến sĩ của tôi.

Trường School of Education tại New York University giúp làm sáng tỏ luận án ba-ngành của tôi: bang giao quốc tế, truyền thông đại chúng, và giáo dục tôn giáo. Tựa đề thật là dài và bao gồm: “Công trình Nghiên cứu về Phạm vi của những Mục tiêu được đề ra trong các Chương Trình Phát thanh Tôn giáo do Hoa Kỳ sản xuất, được Soạn sẵn để Phát sóng tại Âu châu, sẽ được Thực hiện Tùy Theo Cấp Lãnh đạo Tôn giáo của Pháp, Đức và Tây Ban Nha.”

Nhiều nhà truyền giảng Phúc Âm nói với tôi rằng Cơ Đốc nhân không thể theo học đại học thế tục mà không thỏa hiệp trong lời chứng của mình được. Họ nói, không thể nào thực sự đứng về phe Đấng Christ trong hàng ngũ những cây cổ thụ đã được công khai thừa nhận về học thuật. Kinh nghiệm cá nhân của tôi tại New York University buộc tôi phải vội vàng binh vực những người bảo trợ tôi. Điều kiện đã rõ ràng, và điều cần thiết cho nhà trí thức Cơ Đốc, cũng như nhà tìm hiểu thuộc phái bất khả tri, ấy là phải đáp ứng điều kiện trước khi được công nhận là nhà nghiên cứu chân thật. Tuy nhiên, nếu một người thực sự nghiên cứu hợp lý để lấy bằng cấp, nếu người ấy chịu khẳng định chính xác tiền đề của mình, nếu người ấy ngay thật về những qui định ranh giới của công trình cùng việc nghiên cứu mình đã thực hiện, nếu người ấy chịu thận trọng xác định đầy đủ những điều kiện của mình, nếu người ấy có kiến thức để bảo vệ luận án của mình, thì người sẽ có được sự tôn trọng về học thuật từ những người trong ngành, bất chấp niềm tin của mình. Cho nên điều đòi hỏi duy nhất nơi chúng ta chính là chúng ta phải theo đúng thủ tục khoa học thông thường, dùng những văn kiện chứng minh có cơ sở, và có những mẫu mực tư duy hợp lý.
Trong đại học này tôi thấy mình rất có thể khởi đầu với tiền đề cho rằng Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời. Đại đa số mọi người ở đây không tin là như vậy; nhưng tôi hoàn toàn có quyền với tư cách học giả, khẳng định điều này như là một trong những tiền đề của mình. Bước học thuật đầu tiên trong một luận án chính là giải thích một số tiền đề và phạm vi ranh giới, phải xác định một số điều kiện. Và sau khi thực hiện xong những điều đó, thì trường đại học chờ đợi những thủ tục và kết luận hợp lý từ những tiền đề cơ bản. Tôi thấy những người biết suy tư thì không chỉ trích hoặc xem thường công việc của chúng ta. Họ không có cơ sở để cho là chúng ta bất hợp lý một khi chúng ta đã khẳng định rõ ràng tiền đề bảo rằng có một Đức Chúa Trời, và Kinh Thánh là Lời Ngài phán với con người.

Hai năm rưỡi học tập và khảo cứu để lấy bằng Tiến sĩ đã giúp chúng tôi chuẩn bị mở rộng công việc trong lục địa Âu châu. Những chỉ dẫn chính từ luận văn của tôi cung ứng thông tin hữu dụng trong chương trình phát thanh truyền giáo của chúng tôi. Một điều kiện quan trọng nổi bật hơn cả trong khi tôi lập bảng kê và đánh giá những kết quả việc khảo cứu của mình. Những mẩu ý kiến ngẫu nhiên thâu băng, trực tiếp, qua câu hỏi điều tra, với những nhóm đại diện dân bản địa, qua việc nghe chương trình phát thanh cho chín trung tâm chính tại Âu châu - tất cả đều cho thấy rõ một yếu tố quan trọng để thành công trong việc truyền thông. Chương Trình phát thanh phải gắn liền với kinh nghiệm sống hằng ngày, với cuộc sống đời thường, với nan đề mỗi ngày. Chìa khóa của nếp sống Cơ Đốc không nhất thiết phải là sự xuất hiện ngoạn mục của Đức Chúa Trời trong bụi gai cháy, mà là sự hiện diện trường cửu của Ngài trong những thất vọng, những tranh chiến, những niềm vui của gia đình, của sở làm, của cửa tiệm, của xưởng đúc, của đấu trường thể thao. Giáo lý đúng trong những chương trình của chúng tôi là nền tảng thiết yếu, nhưng chúng tôi cũng muốn bảo đảm cung ứng chỉ dẫn cách sống cuộc đời Cơ Đốc nhân nữa.

Suốt thời gian làm luận văn tại Đại học New York, tôi có liên lạc thư từ với ông Bosio và ghé qua đài ở Monte Carlo vài lần để duy trì vấn đề mở rộng chương trình. Đôi lúc tôi tự hỏi không biết toàn bộ công việc có là lãng phí thì giờ hay không. Chúng tôi đang làm tốt tại Tangier vào lúc đó. Thật ra, ngay giữa thảo luận với Monte Carlo, chúng tôi gần đi tới việc lập kinh phí thực sự để mở rộng những phương tiện tại Tangier. Bây giờ khi nhìn lại thì rõ ràng là nơi mà chúng ta trước đây thường muốn sấn tới với những kế hoạch mở rộng của mình thì bây giờ chúng tôi lại cảm thấy muốn chậm bớt lại. Chúng tôi bàn tính mua thêm đất và gắn hệ thống ăng ten lớn hơn. Nhưng Đức Chúa Trời kéo chúng tôi chậm lại.

Bỗng nhiên Morocco được độc lập và bức tranh chính trị bắt đầu thay đổi nhanh chóng. Một thông báo từ chính phủ khiến cho sự trì hoãn của chúng tôi tại Tangier hoàn toàn rõ ràng: mọi việc phát thanh trong nước đều phải quốc hữu hóa vào cuối 1959. Lúc này là tháng Tư. Cảnh có vẻ đen tối như nửa khuya khi ban điều hành tại Tangier nghe tin vào lúc đầu. Ba tôi đọc thông báo của chính phủ cho nhóm cầu nguyện chiều Thứ Tư. Thật là một cú giáng choáng váng nhưng chẳng một người nào nói: “Thôi thì có lẽ chúng ta phải về nhà thôi.”

Tất cả chúng tôi biết rằng xuyên suốt các Eo Biển có dẫy đầy những máy phát thanh - ước lượng khoảng 80.000.000 cái vào thời đó. Và chúng tôi biết rằng không có đài phát thanh Phúc Âm nào hoạt động toàn thời gian trên vùng lục địa. Cho nên chúng tôi chờ đợi Đức Chúa Trời hành động. Có sự cầu nguyện ráo riết và những ngày căng thẳng đó đầy ắp những tình cảm xúc động và chờ mong.

“Lạy Chúa, Ngài dành cho chúng con điều gì đây? Nếu Ngài đóng cửa này, xin chỉ cho chúng con công việc kế tiếp.” Cả nhóm đều đồng thanh cảm nhận được rằng Đức Chúa Trời sẽ mở một cơ hội phát thanh khác.

Khi thông báo của chính phủ Morocco tới trụ sở trung ương chúng tôi tại Chatham, New Jersey, chúng tôi cảm thấy như thể mọi chuyện đều sụp đổ. Nhưng Chúa lại nhanh chóng quay chúng tôi sang một hướng khác. Trong vòng hai mươi bốn tiếng, tôi đáp chuyến bay từ New York tới Monte Carlo. Chúng tôi không có được bảo đảm cụ thể nào về bất kỳ điều gì đang triển khai ở đó, và tôi cũng sẽ không đẩy mạnh một hợp đồng nào trước đó dù là có khả năng. Tất cả chúng tôi trong công tác đều cảm nhận chắc chắn trong lòng rằng chúng tôi vừa khởi đầu thật tốt trong việc phát thanh Phúc Âm, và chúng tôi tin chắc một cách kỳ lạ rằng Chúa sẽ thực hiện môt điều gì đó vì cớ chúng tôi. Tìm cho ra một nơi tại Âu châu để có thể dựng một máy phát sóng cho việc phát thanh Cơ Đốc toàn thời gian, có vẻ là việc làm khó nhất trong lãnh vực phát thanh. Nhiều cấp lãnh đạo Cơ Đốc khác cũng thấy rõ ràng là như vậy. Tất cả những châu lục khác đều đã có những máy phát sóng như vậy, nhưng còn Âu châu - với sự tập trung đông đảo nhất những máy phát thanh bên ngoài nước Mỹ- thì chẳng có cái nào. Chúng tôi đã tìm khắp nhiều nơi trong châu lục để đặt một đài mới, nhưng theo như tôi được biết thì Monte Carlo thực sự là khả năng duy nhất.

Suốt những lần thương luợng đầu tiên của chúng tôi tại đó, nhu cầu đài phát thanh chưa cấp bách. Vào lúc nhu cầu trở thành cấp bách, thì Monte Carlo đã quyết định. Ngay tại điểm khủng hoảng của chúng tôi, họ sẵn sàng đề cập cụ thể những điều khoản của hợp đồng. Vâng, Đức Chúa Trời đã đình chỉ việc mở rộng”Đài Tiếng Nói Tangier” trong một thời gian vì Ngài có một việc lớn hơn trong kế hoạch tổng quát của Ngài. Ngài không muốn chúng tôi phung phí sức lực hoặc tiền bạc của Ngài, mở rộng một dự án phải chấm dứt trong nay mai. Đức Chúa Trời có cách định thời điểm thật diệu kỳ trong mọi sự!

Tôi đã có thể thực hiện được ngay những thương lượng tại Monaco và tin tưởng xúc tiến cách mạnh mẽ. Đó là Tháng Tư 1959 khi chúng tôi bắt đầu đặt ra những kế hoạch vững chắc để Đài Phát thanh Monte Carlo được quyền hoạt động. Ba tôi với tôi cầu nguyện thật nhiều cho việc sắp xếp với ban phát thanh, và cuối cùng - với cân nhắc kỹ lưỡng - chúng tôi quyết định ứng trước cho họ 50.000 Mỹ kim. Chúng tôi không biết mình sẽ kiếm đâu ra khoản đó, nhưng cảm thấy nếu hứa ít hơn thì sẽ khiến họ thấy bị tổn thương.

Tuy nhiên, khi tôi nói chuyện với ông Bosio, thì ông hỏi: “Ông có muốn Ban Giám Đốc chấp thuận hợp đồng này không? Ông có thể đặt trước bao nhiêu tùy ý, ông biết đó. Nhưng nếu ông thực sự muốn thông qua việc này thì có lẽ ông nên chuẩn bị ứng trước một khoản bao trọn chi phí tổng cọng cho việc lắp đặt. Vậy là khoảng nửa triệu Mỹ kim. Tôi nghĩ đó là cách duy nhất để họ chấp thuận hợp đồng.”

Dường như ông Bosio cố gắng giúp chúng tôi hiểu được tầm quan trọng phải đề nghị một khoản tiền hấp dẫn đối với Ban Giám Đốc - một đề nghị mà họ không ngại ngùng chấp nhận. Ông nhắc khéo rằng đó sẽ là cơ hội ngàn năm một thuở, không nắm lấy là mất trắng.

Chúng tôi biết Ban Giám Đốc đã tính chi tiết những khoản phí lắp đặt của hệ thống ăng ten lớn với máy phát sóng 100.000 watt chúng tôi sẽ cần tới. Chúng tôi không có
con số chính xác nhưng ông Bosio đã ước tính tổng số sẽ là khoảng nửa triệu đô la. Chúng tôi cũng biết là Ban Giám Đốc sẽ không quan tâm đầu tư ngân quỹ riêng của họ. Tất cả đều sẽ phải do nhóm nhỏ chúng tôi đài thọ. Ông Bosio đề nghị chúng tôi phân tổng số tiền thành sáu lần trả góp, lần trả thứ nhất là ngay lúc họ chấp thuận dự án. Năm lần kia sẽ trả trong vòng một năm giữa lúc lắp đặt máy phát và ăng ten.

Còn một tháng nữa thì tới kỳ họp Ban Giám Đốc theo dự kiến, và chúng tôi cảm thấy mình đang lên cung trăng. Ngay cả con số một phần sáu để đặt cọc 83.000 đô la nghe cũng đủ là hoang tưởng rồi!

Trong khi tất cả chúng tôi lúc đầu đều phấn khích với khả năng dời hoạt động phát thanh về Monte Carlo, thì phản ứng thứ hai của chúng tôi lại khác hẳn. Một đợt sóng kinh hoàng đập vào tôi, và tôi thực tình không biết mình có mất trí hay không. Trong khi chúng tôi đang phác thảo hợp đồng, thì tôi với Ba tôi dành hàng giờ chuyện trò và cầu nguyện. Chúng tôi phải “đập khi sắt còn nóng,” và chúng tôi chẳng còn ai để nhờ vả, ngoại trừ Đức Chúa Trời. Thảo luận vấn đề cách công khai hoặc thậm chí với những cá nhân khác sẽ gây hại lớn cho những khả năng hoàn tất hợp đồng. Việc vạch ra từng chi tiết và quyết định, đã đem Bố con tôi lại gần nhau và gần Chúa hơn. Nhưng nửa triệu Mỹ kim thì nghe hầu như vô vọng!

Ông Stanley Clark, một giám đốc của Ngân hàng Barclay cho toàn vùng Trung Đông, từng là bạn thân với Ba Mẹ tôi suốt nhiều năm. Tuy không thể giúp tài chánh cho dự án Monte Carlo, nhưng ông là khích lệ lớn cho chúng tôi khi chúng tôi đưa vào hợp đồng - chỉ bằng đức tin - việc trả góp gấp mười lần số chúng tôi từng mong đợi. Ông Clark ủng hộ chúng tôi một trăm phần trăm, giúp cố vấn, đưa chúng tôi tiếp xúc những người thích hợp, ngay cả gặp gỡ một số viên chức thay cho chúng tôi. Một bậc thủ lãnh người Anh, với lời chứng Cơ Đốc thực sự giữa vòng nhóm Plymouth Brethren. Ông Clark đã có lần được bổ nhiệm làm Thống đốc của United Nations International Conclave tại Israel. Ông thường tiếp đón và chiêu đãi những nhân vật như Hoàng đế Haile Selassie cùng Phu nhân tại nhà riêng, nhưng ông có vẻ cũng thoải mái với chúng tôi. Ông không ngừng cho chúng tôi thấy sự hiệu quả của một đời sống thực sự hiến dâng cho Chúa. Nếp sống của ông là bản dịch từng ngày của đức tin cá nhân sang hành động có ý nghĩa.

Cùng lúc đó chính quyền tại Monte Carlo yêu cầu hợp đồng đã đề nghị phải được giữ kín trong khi chờ đợi, họ cũng yêu cầu đặt cọc 83.000 Mỹ kim mà đối với chúng tôi, nghe như thể là 83.000.000 vậy!

Hợp đồng là một thử nghiệm nghiêm trọng những ý định cùng khả năng hoàn tất những nghĩa vụ tương lai của chúng tôi. Thiết bị mà họ phải lắp đặt hoàn toàn thuộc về Đài Phát thanh Monte Carlo, nhưng họ lại không tài trợ. Vì vậy, hợp đồng xác định rằng chúng tôi phải trả nửa triệu - tổng chi phí của việc lắp đặt ứng trước - cho chúng tôi thuê phương tiện phát thanh toàn thời gian trong mười năm với số lần gia hạn vô định. Vốn đầu tư ban đầu của chúng tôi sẽ dần dần lấy lại được qua những phí tổn thuê mướn và hoạt động.

Chúng tôi phải đối diện một chuyện thật khắc nghiệt! Một luật sư Thụy Sĩ, trong lúc kỹ lưỡng xem xét hợp đồng, có vẻ giận dữ cho tới khi chúng tôi giải thích rằng Đài Phát thanh Monte Carlo không đến yêu cầu chúng tôi cộng tác với họ tại Monaco, mà là ngược lại. Đây là đài phát thanh duy nhất trong khắp Âu châu chịu cứu xét - với bất cứ giá nào - cho chúng tôi đặc quyền phát thanh Phúc Âm toàn thời gian. Đó là sự thật vào Tháng Tám 1959 khi chúng tôi đang soạn thảo hợp đồng. Cho tới ngày nay cũng vẫn là như vậy. Vì cớ chúng tôi tha thiết cần cơ hội được phép hoạt động, cho nên việc chấp nhận bảng giá đính kèm thật cao cũng chẳng có gì là không hợp lẽ.
Trước đó có lần Ba Mẹ tôi đi Anh, viếng thăm Keswick với vài bạn người Anh. Trong thời gian này Mẹ tôi bị viêm phế quản; sau đó lại viêm phổi, phải vào bịnh viện London. Đó là thời gian thử thách đối với Ba tôi, ông thắc mắc không hiểu tại sao kế hoạch của mình bị thay đổi và ngày về lại Tangier bị trễ khoảng sáu tuần. Một chiều nọ, chán nản và sốt ruột, ông tự nhủ: “Sao mình không thử nghe ‘Đài Tiếng Nói Tangier’ xem sao?” Ông nhìn lên chiếc ra-đi-ô cũ kỹ và định sau khi ăn tối sẽ mở chương trình phát thanh bằng Anh ngữ. Khi nghe điệu nhạc cùng giọng nói quen thuộc, ông thích thú đến nỗi chạy ra sảnh đường Nhà Nghỉ Truyền giáo, kêu gọi: “Qua đây nghe này!”

Khoảng hai mươi người chạy qua. Trong số đó có một Cơ Đốc nhân trẻ người Na Uy qua Anh học và trau dồi cách dùng tiếng Anh.

Anh rất chú ý chương trình phát thanh và hỏi: “Các ông nghĩ là có thể sắp xếp chương trình này sang tiếng Na Uy được không? Ở Na Uy chúng tôi chỉ có phát thanh của nhà nước thôi. Đây là ý kiến hấp dẫn - chương trình phát thanh như thế này có thể được nghe trong xứ chúng tôi.”

Ba tôi nói: “Tôi không hiểu tại sao lại không được!”
“Vậy sao mình không làm?”

“Vì mình cần có người biết chuẩn bị chương trình và chuyển ngữ. Và chúng ta cũng cần có người giúp chi phí phát sóng nữa.”

“Tôi nghĩ là tôi biết đúng người quan tâm chuyện này.”

“Được thôi, cho tôi tên và địa chỉ đi, tôi sẽ viết thư cho người ấy.”

Bước nọ dẫn tới bước kia, giúp chúng tôi tiếp cận được những người hàng đầu trong phong trào hoạt động tích cực của những người ngoài hàng giáo phẩm ở Na Uy: ông Vaagen, ông Eikli, và ông Haanes cùng với con trai là Leif. Mối quan tâm nhiệt thành của họ trong việc phát thanh Phúc Âm đã cho chúng tôi giải đáp về lý do sáu tuần chậm trễ tại London. Tiện nghi rất tồi tệ - bị gió lùa và lạnh lẽo, nhưng Mẹ tôi không hề nao núng, cứ khăng khăng cho rằng Chúa có mục đích trong việc này. Câu chuyện tiếp theo cho thấy mục đích này đã trở nên rõ ràng ra sao.

Giữa việc soạn thảo hợp đồng với lần họp của Ban Giám Đốc là chưa tới một tháng. Tôi lên lịch đi chuyến đầu tiên sang Nga và đồng thời để đích thân xem có thể làm được gì qua việc phát thanh Phúc Âm cho xứ này. Trên đường đi tôi ghé qua Oslo và gặp những người Na Uy đã từng náo nức vì đài “Tiếng Nói Tangier” dạo hè năm trước.

Tôi được mời đến nhà Ông Bà Vaagen. Tối đó một vài người bạn kể cả gia đình Haanes, họp lại cầu nguyện. Ông Haanes, chủ một công ty đóng tàu thật lớn cùng một số doanh nghiệp thành công khác, là một Cơ Đốc nhân phục vụ Chúa xuất sắc. Tôi cũng được biết rằng, trước khi đám cưới, bà Haanes đã từng là giáo sĩ cho Phi châu, một lý lịch tạo thêm kinh nghiệm cho mối quan tâm sâu sắc của họ trong việc truyền giảng Phúc Âm. Con trai của họ là Leif cũng là thành phần trong nhóm cầu nguyện.

Mối thông công cầu nguyện của chúng tôi thật giản dị và ngọt ngào. Họ cầu xin Đức Chúa Trời ở với tôi tại Liên Xô. Điều đặc biệt quan trọng đối với tôi là đây không phải chỉ là chuyến đi ngắm cảnh. Tôi chưa bao giờ cảm nhận được quyền năng Đức Chúa Trời trọn vẹn hơn hoặc biết chắc là Ngài sẽ hoàn thành mục đích riêng của Ngài cách toàn vẹn hơn tôi cảm nhận tối hôm đó. Tôi cảm thấy dứt khoát được Đức Chúa Trời hướng dẫn tỏ cho họ biết ngay lúc đó về khả năng của Monte Carlo, và yêu cầu họ đừng nói gì với ai về điều đó.

Đây là những con người đầy thế lực, tài năng, yêu mến Chúa và đặt Ngài lên hàng đầu trong cách sống của mình. Giữa vòng Giáo hội Lutheran tại Na Uy, Đức Chúa Trời đã âm thầm làm việc, chạm đến ông này, bà kia. Sự thức tỉnh thuộc linh trong đời sống của nhiều người thường đã tạo thành một cộng đồng tín hữu có mối ưu tư khác thường tại Na Uy. Khoảng 2.000 nhà cầu nguyện đã được lập ra vào thời điểm đó để cầu nguyện và học Kinh Thánh. Việc Đức Chúa Trời mở trí và lòng này đưa họ tiến xa hơn để thấy những cơ hội phục vụ có thể xúc tiến rao giảng Phúc Âm cho người khác. Trong khi họ đang bảo trợ một số dự án truyền giáo ở nước ngoài, thì lại cảm nhận gánh nặng phát thanh mà tôi chia sẻ với họ. Ở dưới phố Oslo hiện nay họ có một tòa nhà trụ sở điều khiển mọi nhà cầu nguyện cùng dự án truyền giáo. Tôi chưa bao giờ cảm nhận được sự hiện diện của Chúa gần gũi hơn tôi cảm nhận được tối đó tại Oslo khi cùng cầu nguyện với các thành viên trong the Norwegian Laymen’s Movement (Phong trào của Người Thường Na Uy).

Nhóm cầu nguyện nhỏ của Na Uy, người bạn Đức Hermann Schulte, cùng khoảng năm người khác ngoài gia đình chúng tôi là những người duy nhất biết về thách thức mới lớn lao của chúng tôi. Chính quyền Monte Carlo đã yêu cầu chúng tôi đừng công khai hóa những cuộc thương lượng và chúng tôi cũng thấy thiếu khôn ngoan nếu làm như vậy cho nên chúng tôi không công khai phổ biến nhu cầu của mình. Thật ra chúng tôi còn phải làm ngược lại - chúng tôi có đặc quyền kỳ diệu là chỉ cần an nghỉ trên lời cầu nguyện trong suốt tháng chiến lược đó.

Vào khoảng cùng thời gian đó, Tháng Chín 1959, chúng tôi quyết định mở một văn phòng cho chương trình Phát Thanh Xuyên Thế Giới trên lục địa. Chúng tôi mời một cặp vợ chồng phụ trách tương đối mới, Burt và Sonja Reed, cùng đi với ba tôi để mở một văn phòng tại Beatenberg. Các mục tiêu đã rõ: một, chúng tôi cần chấm dứt căn cứ hoạt động tại Tangier như là trụ sở; hai, chúng tôi muốn đặt cơ sở cho hoạt động phát thanh tại Monte Carlo.

Công việc Ba tôi đã làm tại Tangier thật thiết yếu để mang lại hiệu quả cho những buổi phát thanh của chúng tôi. Tuy nhiên, việc soạn các chương trình, việc theo dõi

chăm sóc, điều phối ban phụ trách mỗi lúc càng gia tăng, khiến còn ít thời gian cho một mặt cực kỳ quan trọng của dự án tổng quát - tức liên lạc với cấp lãnh đạo phái Phúc Âm trong toàn vùng mục tiêu của Âu châu. Đây là giấc mơ cho tới nay vẫn chưa thực hiện được là bao.

Hai tuần sau khi tới Beatenberg cùng với gia đình Reed, Ba tôi đi Monaco để gặp Ban Phát thanh Monte Carlo. Điều không thể có đã xảy ra! Món tiền 83.000 Mỹ kim đang nằm chờ ở đó! Sau buổi cầu nguyện tại Oslo, gia đình Haanes quyết định rằng Đức Chúa Trời muốn họ tự thực hiện bước đầu này. Họ vét sạch tài khoản ngân hàng và thấy được phép lạ ngân phiếu cho Chương Trình Phát Thanh Xuyên Thế Giới. Người con trai là Leif Haanes từ Na Uy tới nơi với món quà và có mặt để ký vào hợp đồng.
Stanley Clark cũng đến với đài để thương lượng. Một con người đặc biệt với khải tượng và khát vọng, ông lấy làm ngạc nhiên nhìn thấy bước đức tin của chúng tôi trong việc dời hoạt động tới Monte Carlo. Nhưng ông Clark đã quen bạo dạn bước ra với đức tin để thực hiện những kế hoạch hành động riêng, cho nên ông sẵn sàng hoàn toàn ủng hộ chúng tôi trong buổi họp Ban Giám Đốc.

Vào lúc này tôi đã từ chuyến thăm dò Nga trở về Chatham, và đang trông tin của Ba tôi qua điện thoại.

Vào buổi sáng gặp gỡ Ban Phát thanh Monte Carlo, Ba tôi, Ông Clark, và Leif Haanes họp nhau cầu nguyện. Sau đó, họ lên núi xem qua các thiết bị. Đài đã được xây trong chế độ Đức Quốc Xã để làm đài tuyên truyền. Đó là một cấu trúc vĩ đại, đẹp đẽ, đồ sộ, bằng đá - vừa mới hoàn tất nhưng chưa lắp đặt thiết bị nào vào cuối cuộc chiến khi người Đức trở về nước. Thực sự là tôi cảm thấy ớn lạnh xương sống khi nghĩ đến Phúc Âm sẽ được giảng ra hằng ngày từ chính cấu trúc mà Adolph Hitler đã thiết kế nhằm phổ biến tuyên truyền cho Đức Quốc Xã.

Trong khi ba người trong nhóm đang ở độ cao 2500 bộ trên thành phố xem xét các thiết bị phát sóng thì ông Bosio gọi điện cho Ba tôi ở đó.

“Tin mừng cho anh! Tôi sẽ không chính thức kể cho anh đâu, vì ông Solamito, giám đốc của chúng tôi, đáng phải kể cho anh nghe. Nhưng tôi chắc là anh có thể đoán được. Ông ấy muốn gặp anh ngay bây giờ.”

Sáng hôm sau, cuộc thương lượng thực sự diễn ra và Leif Haanes - cùng với ba tôi bên cạnh - trao ngân phiếu 83.000 Mỹ kim để đặt cọc vào tài khoản Đài Phát thanh Monte Carlo.

Lúc điện thoại reo, tôi đang trong phòng làm việc ở nhà. Tôi cảm thấy tim muốn vỡ tung vì xúc động trong lòng. Tôi nín thở như thể sắp nghe tiếng Đức Chúa Trời. Tiếp theo là giọng Ba tôi: “Paul à, Đức Chúa Trời đã làm việc đó!” 

(Còn nữa...)