"Ngươi chớ phạm tội ngoại tình." (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:14; Phục Truyền Luật lệ Ký 5:18)
Trước hết, chúng ta cần ghi nhớ: "bản tính dâm" hay "bản năng tính dục" không phải là điều xấu xa, tội lỗi. Thiên Chúa dựng nên loài người có nam, có nữ và ban cho loài người bản năng tính dục. Bản năng tính dục cần thiết cho việc lưu truyền nòi giống và đem lại những cảm giác vui thích trong mối quan hệ vợ chồng. Bản năng tính dục cũng như bao nhiêu bản năng khác của loài người, nếu được thể hiện đúng thì sẽ đem lại phước hạnh và ích lợi, nếu thể hiện sai thì sẽ đem lại đau khổ và thiệt hại. Sự thể hiện bản năng tính dục theo thánh ý của Thiên Chúa được gọi là "chính dâm." Tất cả những sự thể hiện bản năng tính dục nghịch lại thánh ý của Thiên Chúa được gọi chung là "tà dâm:"
1. Chính dâm: sự quan hệ tình dục giữa vợ chồng
2. Tà dâm: sự quan hệ tình dục giữa những người không phải là vợ chồng, bao gồm các hành động sau đây:
► ngoại tình: sự quan hệ tình dục giữa một người đã lập gia đình với người không phải là vợ hoặc chồng của mình
► gian dâm: sự quan hệ tình dục giữa những người chưa lập gia đình
► thủ dâm: sự tự thỏa mãn dâm dục bằng tay hoặc đồ vật
► bán dâm: sự quan hệ tình dục để đổi lấy tiền bạc, đồ vật, địa vị, ân huệ...
► mua dâm: sự dùng tiền bạc, đồ vật, địa vị, ân huệ... để đổi lấy quan hệ tình dục
► hiếp dâm hoặc cưỡng dâm: sự bắt ép người khác phải quan hệ tình dục với mình
► thú dâm: sự quan hệ tình dục với loài thú
► đồng tính luyến ái: sự quan hệ tình dục giữa những người cùng phái tính
► loạn luân: sự quan hệ tình dục giữa những người có quan hệ gia đình và bà con gần
► trao đổi vợ chồng: sự những cặp vợ chồng trao đổi người hôn phối để quan hệ tình dục với người hôn phối của người khác
► Chính Dâm
Từ buổi ban đầu, Thiên Chúa dựng nên người nam và người nữ, kết hợp họ với nhau để người nữ giúp đỡ và làm bạn với người nam; đồng thời để cả hai lưu truyền dòng dõi của loài người trên đất và quản trị đất (Sáng Thế Ký 1:26-28; 2:18-25). Việc lưu truyền dòng dõi đòi hỏi sự quan hệ tình dục giữa hai phái tính, vì thế, sự quan hệ tình dục giữa vợ chồng là việc thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa. Sự quan hệ tình dục giữa vợ chồng còn là ơn phước Chúa ban vì nó đem lại những cảm giác và cảm xúc vui sướng, thỏa lòng trong mối quan hệ vợ chồng.
Thánh Kinh dạy rõ, vợ chồng phải xem trọng việc quan hệ tình dục, và đó là mối quan hệ bình đẳng: thân thể của chồng thuộc về vợ, thân thể của vợ thuộc về chồng:
Ma-thi-ơ 19:4-6 " Ngài trả lời rằng: Các ngươi há chưa đọc lời chép về Đấng Tạo Hóa, hồi ban đầu, dựng nên một người nam, một người nữ, và có phán rằng: Vì cớ đó người nam sẽ lìa cha mẹ, mà dính díu với vợ mình; hai người sẽ cùng nên một thịt hay sao? Thế thì, vợ chồng không phải là hai nữa, nhưng một thịt mà thôi. Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp!"
Mác 10:6-8"Nhưng từ lúc đầu sáng thế, Đức Chúa Trời làm ra một người nam và một người nữ. Vì cớ đó, người nam lìa cha mẹ mình mà dính díu với vợ;và hai người cùng nên một thịt mà thôi. Như thế, vợ chồng chẳng phải mà hai nữa, mà chỉ một thịt."
I Cô-rinh-tô 7:2-5 " Song, cho được tránh khỏi mọi sự dâm dục, thì mỗi người đàn ông phải có vợ, mỗi người đàn bà phải có chồng. Chồng phải làm hết bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền tự chủ về thân mình, bèn là chồng; chồng cũng vậy, không có quyền tự chủ về thân mình bèn là vợ.Đừng từ chối nhau, trừ ra khi hai bên ưng thuận tạm thời, để chuyên việc cầu nguyện; rồi trở lại hiệp cùng nhau, kẻo quỷ Sa-tan thừa khi anh em không thìn mình mà cám dỗ chăng."
Ngoài ra, con dân Chúa phải giữ cho mối quan hệ tình dục giữa vợ chồng luôn được thánh sạch, bằng cách không bắt chước người đời sử dụng các đồ chơi tình dục (sex toys) và các tài liệu khiêu gợi tình dục qua phim ảnh, sách báo, internet. Con dân Chúa phải tuân theo các luật vệ sinh, thực hành mối quan hệ tình dục giữa vợ chồng trong danh Chúa và biết cầu nguyện cảm tạ Chúa:
Lê-vi Ký 15:18 "Khi nào người nam và người nữ giao cấu nhau, thì phải tắm trong nước, và bị ô uế cho đến chiều tối."
Lê-vi Ký 18:19 "Trong lúc người nữ có kinh nguyệt, chớ đến gần mà cấu hiệp."
Hê-bơ-rơ 13:4 "Mọi người phải kính trọng sự hôn nhân, chốn quê phòng chớ có ô uế, vì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục cùng kẻ phạm tội ngoại tình."
I Cô-rinh-tô 10:31 "Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh quang của Thiên Chúa mà làm."
Ê-phê-sô 5:20 "Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta."
► Tà Dâm: Ngoại Tình
Điều răn thứ bảy được chép trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:14 và Phục Truyền Luật lệ Ký 5:18 nghiêm cấm việc phạm tội ngoại tình. (Bản dịch Phan Khôi 1926 dịch là "Ngươi chớ phạm tội tà dâm.") Từ ngữ "ngoại tình" trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ là "nâ'aph" (H5003), có nghĩa là: một người đã có gia đình nhưng quan hệ tình dục với một người không phải là vợ hay chồng của mình.
Tội ngoại tình không chỉ giới hạn trong hành động ngoại tình mà bao gồm:
1. Tư tưởng ham muốn tình dục với người không phải là vợ hay chồng mình, điều này bao gồm việc tư tưởng đến người khác trong khi có quan hệ tình dục với vợ hay chồng:
Ma-thi-ơ 5:27, 28 "Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội ngoại tình. Song Ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đàn bà mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội ngoại tình cùng người rồi."
Có người đặt ra vấn đề là: Ma-thi-ơ 5:27, 28 chỉ đề cập đến việc đàn ông nhìn đàn bà mà động tình ham muốn, cho nên, câu này không áp dụng cho đàn bà. Người lý luận như thế tức là đã cho rằng Đức Chúa Jesus tây vị: cùng một hành động xảy ra nhưng Chúa chỉ kết tội phái nam mà không kết tội phái nữ. Thánh Kinh cho chúng ta biết "Thiên Chúa không tây vị ai hết" (Ga-la-ti 2:6; Ê-phê-sô 6:9; I Phi-e-rơ 1:17). Câu phán của Chúa thuộc loại nêu thí dụ làm điển hình, tức là nêu lên một sự kiện để chỉ ra bất cứ sự kiện nào tương tự như vậy đều mang chung một tính chất. Sự kiện được Chúa nêu lên là: nhìn một người không phải là phối ngẫu của mình mà động lòng ham muốn. Tính chất của sự kiện ấy là: phạm tội ngoại tình. Vì thế, bất kể đàn ông hay đàn bà, nếu nhìn một người khác, không phải là vợ hay chồng của mình mà động tình ham muốn thì trong lòng đã phạm tội ngoại tình (hoặc tội gian dâm nếu cả hai, người nhìn và người bị nhìn đều là độc thân). Còn nếu người bị nhìn là người cùng phái tính với người nhìn thì người nhìn vừa phạm tội ngoại tình hoặc gian dâm vừa phạm tội đồng tính luyến ái.
2. Sự ly-dị vợ vì bất cứ lý do gì nếu không phải là vì vợ phạm tội tà dâm.
Ma-thi-ơ 5:32 "Song Ta phán cùng các ngươi: Nếu người nào ly dị vợ mà không phải vì cớ tà dâm, thì người ấy làm cho vợ mình ra người ngoại tình; lại nếu người nào cưới đàn bà bị ly dị đó, thì cũng phạm tội ngoại tình."
Lý do chính đáng duy nhất để một người ly dị vợ là vì cớ người vợ phạm bất cứ hình thức nào của tội tà dâm. Vì thế, dù người vợ không phạm tội tà dâm nhưng nếu bị chồng ly dị thì người vợ vẫn bị xem là người ngoại tình. Mặc khác, nếu một người vợ bị chồng ly dị vì lý do nào khác hơn là vì phạm tội tà dâm thì sự ly dị đó không hợp pháp trước mặt Chúa, cho nên, quan hệ vợ chồng vẫn còn. Nếu người vợ tái giá thì đối với luật pháp của Chúa cả người vợ lẫn người chồng mới của bà ta đều phạm tội ngoại tình.
Nếu một người ly dị vợ hay chồng vì bất cứ lý do gì khác hơn là vì người phối ngẫu phạm tội tà dâm thì chính người đó đã phạm tội ngoại tình:
Mác 10:11, 12 "Ngài phán rằng: Ai ly dị vợ mình mà cưới vợ khác, thì phạm tội tà dâm nghịch lại nàng; còn nếu người đàn bà bỏ chồng mình mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội tà dâm."
Như đã trình bày, ngoại tình là một trong các hình thức của sự tà dâm. Mặc dù điều răn thứ bảy chỉ đề cập đến tội ngoại tình nhưng trong các nơi khác của Thánh Kinh có nghiêm cấm mọi hình thức tà dâm. Trong thời Tân Ước, Đức Thánh Linh đã thêm hai điều răn cho Hội Thánh (Công Vụ Các Sứ Đồ 15:28):
1. Kiêng ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngột
2. Chớ tà dâm
Đây là hai điều răn thêm vào Mười Điều Răn đã có trong thời Cựu Ước chứ không phải để thay thế Mười Điều Răn. Thật là vô lý nếu cho rằng thời Tân Ước con dân Chúa chỉ cần vâng giữ hai điều răn này mà không cần vâng giữ Mười Điều Răn. Thế nhưng, có nhiều "tiến sĩ thần học" thời nay công bố rằng tín đồ chỉ cần vâng giữ hai điều răn nói trên mà không cần vâng giữ Mười Điều Răn!
Đức Thánh Linh thêm hai điều răn này là để tóm gọn các sự nghiêm cấm khác trong Thánh Kinh không được đề cập trong Mười Điều Răn cho những người không thuộc dân I-sơ-ra-ên mới gia nhập Hội Thánh, là những người vốn không biết gì về Thánh Kinh Cựu Ước như những người I-sơ-ra-ên.
► Anh Chị Em Ruột Kết Hôn Lẫn Nhau
Trong buổi đầu sáng thế, Thiên Chúa cho phép anh chị em ruột kết hợp làm vợ chồng, nhờ đó, loài người mới có thể tiếp tục thi hành mệnh lệnh sanh sản làm cho đầy dẫy đất. Sau khi dân I-sơ-ra-ên được mang ra khỏi Ai-cập thì Thiên Chúa nghiêm cấm việc anh chị em ruột kết hôn lẫn nhau. Giải thích hợp lý nhất để giúp cho chúng ta hiểu vì sao trước đó việc anh chị em ruột kết hôn với nhau không bị kể vào tội loạn luân, là: Trong khoảng 2000 năm đầu tiên của lịch sử loài người, các tế bào của loài người chưa bị suy thoái trầm trọng, cho nên, việc kết hôn giữa anh chị em ruột với nhau không tạo ra các hiệu quả tật bệnh cho con cái. Theo thời gian, các tế bào bị suy thoái ngày càng trầm trọng vì tội lỗi ngày càng gia tăng và môi sinh ngày càng bị ô nhiễm nặng, khiến cho việc kết hợp giữa hai bộ DNA cùng loại sẽ giảm thiểu khả năng thích nghi phát triển và khả năng kháng thể của thai nhi.
► Hậu Quả của Sự Tà Dâm
Tà dâm dưới bất cứ hình thức nào cũng đều là vi phạm luật pháp của Thiên Chúa, là tội lỗi. Tuy nhiên sự phạm tội tà dâm có hậu quả nghiêm trọng hơn những tội khác; vì những tội khác mà người ta phạm thì ở bên ngoài thân thể còn tội tà dâm "phạm đến chính thân thể"của người phạm tội, và người phạm tội trở nên cùng một xác thịt với người mình có quan hệ tà dâm:
I Cô-rinh-tô 6:15-18 "Anh em há chẳng biết thân thể mình là chi thể của Đấng Christ sao? Vậy thì mình có nên lấy chi thể của Đấng Christ mà làm thành chi thể của điếm đĩ chăng? Đức Chúa Trời không cho phép! Anh em há chẳng biết người nào kết hiệp với điếm đĩ, thì trở nên một xác với nó sao? Vì có chép rằng: Hai người sẽ đồng nên một thịt. Còn ai kết hiệp với Chúa thì trở nên một tánh thiêng liêng cùng Ngài. Hãy tránh sự tà dâm. Mặc dầu người ta phạm tội gì, tội ấy còn là ngoài thân thể; nhưng kẻ buông mình vào sự tà dâm, thì phạm đến chính thân thể mình."
Chính vì thế mà những người phạm tội tà dâm đem các thứ tật bệnh từ thân thể của người khác vào trong thân thể của mình, làm hại thân thể của mình. Trong trường hợp một người bị tà linh nhập thì người có quan hệ tình dục với người ấy cũng sẽ bị tà linh xâm nhập.
► Ngoại Tình Thuộc Linh
Thánh Kinh gọi việc con dân Chúa thờ lạy hình tượng, tà thần là phạm tội ngoại tình, là làm điếm:
Giê-rê-mi 3:8 "Dầu Ta đã bỏ I-sơ-ra-ên bội nghịch và đã cho nó tờ ly-dị, vì cớ nó ngoại tình, Ta cũng còn thấy em gái quỷ quyệt nó, là Giu-đa, chẳng sợ sệt chi; nhưng nó cũng cứ đi hành dâm."
Thời Tân Ước, tội ngoại tình thuộc linh hay là thờ lạy hình tượng, tà thần không giới hạn trong hành động thờ lạy hình tượng và tà thần mà còn bao gồm lòng ưa thích các hình tượng tà thần, tức là phạm tội ngoại tình thuộc linh trong tư tưởng, và lòng tham lam, bất kể là tham lam điều gì:
Ê-phê-sô 5:5 "Vì anh em phải biết rõ rằng kẻ gian dâm, ô uế, tham lam, tức là kẻ thờ hình tượng, không một kẻ nào được dự phần kế nghiệp vương quốc của Đấng Christ là Thiên Chúa."
Cô-lô-se 3:5 "Vậy hãy làm chết các chi thể của anh em ở nơi hạ giới, tức là tà dâm, ô uế, tình dục, ham muốn xấu xa , tham lam, tham lam chẳng khác gì thờ hình tượng."
Tham lam là muốn có nhiều hơn sự nhu cầu của mình hoặc ưa thích và muốn chiếm đoạt điều không thuộc về mình. Con dân Chúa, nếu không vâng theo Lời Chúa trong I Ti-mô-thê 6:8 tức là phạm tội ngoại tình thuộc linh vì đã tôn thờ tiền bạc:
"Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng."
Hậu quả của sự tham tiền bạc rất là kinh khiếp:
I Ti-mô-thê 6:9, 10 "Còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt hư mất. Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn."
Từ ngữ ô uế trong Ê-phê-sô 5:5 cũng như những nơi khác trong Thánh Kinh, như: Khải Huyền 3:4; 21:27; 22:11, có nhiều nghĩa và một trong những nghĩa quan trọng được định nghĩa trong Ê-sai 56:2 là sự không vâng giữ ngày Sa-bát, làm theo những điều nghịch lại Lời Chúa mà thế gian vẫn làm:
"Phước thay cho người làm điều đó, và con người cầm vững sự đó, giữ ngày Sa-bát đặng đừng làm ô uế, cấm tay mình không làm một điều ác nào!"
Gia-cơ 1:27 "Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là : thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian."
► Kết Luận
Bản năng tính dục là sự ban cho của Thiên Chúa để loài người được vui thỏa trong quan hệ vợ chồng và làm tròn thiên chức sanh sản thêm nhiều, làm cho loài người đầy dẫy đất (Sáng Thế Ký 1:28). Nhưng nếu bản năng tính dục được thể hiện một cách tùy tiện vượt ngoài nguyên tắc của Thánh Kinh thì sẽ khiến cho loài người phạm tội. Điều răn thứ sáu:"Ngươi chớ phạm tội ngoại tình" được bổ sung thêm bởi điều răn "Chớ tà dâm" trong Tân Ước là nguyên tắc sống đạo cho con dân Chúa trong phương diện tính dục.
Tội ngoại tình nói lên sự không chung thủy của một người đối với vợ hay chồng của mình. Thánh Kinh dùng tội ngoại tình làm hình bóng cho sự không trung tín của con dân Chúa đối với Thiên Chúa khi họ say mê, tôn thờ, và trông cậy nơi các thần tượng.
Huỳnh Christian Timothy
www.timhieutinlanh.net
www.timhieutinlanh.net