S ự S i n h H o ạ t T r o n g G i a Ð ì n h
v à N h ữ n g D â y L i ê n L ạ c T r o n g Gia Ð ì n h
Áo bình an không bao giờ phai màu.
Sự sinh ra là sứ giả của sự chết."
Tục ngữ xứ Sy-ri.
Ðã thấy gã chăn chiên, gã nông phu trong đồng ruộng, những người lái buôn theo đuổi nghề nghiệp, bây giờ chúng ta sẽ chú ý đến sự sinh hoạt trong gia đình. Ấy là vì cớ sự sinh hoạt trong gia đình nên mới có những nghề nghiệp kia.
Trước hết chúng ta hãy xem xét cái nhà và sự sắp đặt trong nhà, sự nấu nướng đồ ăn và cách ăn uống, cùng các thứ và các kiểu y phục. Và chúng ta sẽ xét đến những sự liên lạc và những sự xảy ra cốt yếu trong sự sinh hoạt ở chốn gia đình. Như vậy, chúng ta sẽ sẳn sàng để trong một chương cuối cùng, xem xét thể nào những tình hình và phong tục mà mình mới kê cứu được diễn lại và mở mang trong những việc công, đem cả đặc tính vào xã hội, chính trị và tôn giáo ở phương Ðông.
1. Nhà.- Cũng như trong những xứ khác, nhà là một nơi thân mật biệt riêng, một nơi che chở khỏi lạnh lẽo. Nhưng ở phương Ðông, nhà lại đặc biệt là nơi che chở khỏi nắng nóng. Rải rác đây đó có dấu tích của những hang đá làm nơi ở của người thái cổ; và những gã chăn chiên cũng dẫn bầy mình vào các hang đá giống như thế. Hang đá là nơi ẩn náu của những kẻ trốn tránh trong thời dân Y-sơ-ra-ên bị ức hiếp. Ngày nay những hang đá bỏ không của xứ Ba-san và những phòng hẹp đục trong đá của các thầy tu chính là tỏ ra cách kiến trúc những hang đá đời thượng cổ.
(1) Nhà trại.- Ðó là kiểu nhà sơ sài hơn hết, rất được thông dụng, và là đặc sắc của người Bédouinshoặc du mục. Nó là một cái mái thấp bằng lông dê đen, phía trước để ngỏ và có hai cột chống lên. Có thể kể chỗ ngỏ ấy là nguyên gốc của mọi cánh cửa, đã được đổi thành đẹp đẽ và to lớn hơn hết, như cổng của các thành phố và của Ðền thờ ở Giê-ru-sa-lem. Trại được giữ vững vàng bởi các dây thừng cũng làm bằng lông dê đen, dây thừng buộc vào các cọc bằng gỗ dẻ bộp dùng vồ đóng xuống đất (Các quan xét 4:21; 5:26). Có một tấm màn treo ở giữa trại, phân cách phòng của đờn bà với phòng chung. Vì được che kín không ai thấy như thế, nên đờn bà có thể dễ dàng nghe chuyện ở phòng chung hoặc ở cửa trại (Sáng thế ký 18:10). Cũng có thể nhìn ra phía ngoài qua tấm rềm làm bằng cói.
Sau khi dân Y-sơ-ra-ên chăm chú vào nghề nông, thì họ vẫn dùng cái trại. Nó là biểu hiệu cho một cuộc đời giản dị, không bị bó buộc; mỗi khi người ta không chịu nhận một phương pháp nào trong việc quốc gia, thì họ lại kêu la rằng: "Hỡi Y-sơ-ra-ên, mỗi người hãy trở về trại mình!" (II Sa-mu-ên 20:1; I Các Vua 12:16). Vì có liên lạc với tổ tông, nên trong thi ca và các sách tiên tri, các trại được địa vị cao quí hơn cái nhà xây bằng đá (Thi Thiên 84:1-10; Nhã-ca 1:5; Giê-rê-mi 4:20). Hiện nay những người đã được trưởng dưỡng trong cái trại thì rất không đành lòng lìa bỏ nó. Họ cho rằng lìa bỏ cái trại thì về phương diện xã hội là một sự nhục nhã, và về phương diện cá nhân là một sự hi sinh. Cách đây mấy năm, người vợ của một ông quan người Bédouin ở thành Ða-mách đã chết vì thèm thuồng cuộc đời trong cái trại mà mình đã phải dứt bỏ. Quan nầy trước đã cưới một thiếu nữ người Anh, thuộc dòng quí phái; hằng năm bà ở nơi đồng vắng với chồng ít lâu, rồi vợ chồng lại về ở thành Ða-mách. Bà trang hoàng nhà cửa rất lịch sự, cũng trồng trong vườn nhiều thứ cây và hoa quí. Khi bà nầy qua đời, thì quan đó lại cưới một nàng quận chúa cùng dân tộc với mình, đem nàng về nhà mình ở thành Ða-mách. Chẳng bao lâu nàng bắt đầu mất sức khỏe và vui vẻ, mặc dầu chồng mua cho quần áo và đồ nữ trang đẹp đẽ, lại có nhiều bà quí phái tới lui thăm viếng và mời đến nhà chơi, nàng cũng lâm bịnh và qua đời. Lòng nàng thèm nhớ những cuộc hội họp bên biếng, những lạc đà và dê con ở chung quanh trại, và cả cuộc đời giản dị, tự do nơi đồng vắng.
Giê-rê-mi 35:2-17 có để đối chiếu sự người Rê-cáp tuân theo một lời nguyền trong gia tộc với sự bất trung của người Y-sơ-ra-ên đã xây bỏ các điều răn của Ðức Chúa Trời.
(2) Nhà cửa ở trong làng và trong thành phố.- Nhà đơn giản của dân quê thường chỉ có một phòng. Chữ A-rạp để chỉ về một cái nhà cũng có nghĩa là một cái phòng, và chắc trong vòng người Hê-bơ-rơ ngày xưa cũng là như vậy. Giữa phòng có một cái trụ bằng gỗ hoặc bằng đá chống đỡ cái sà ngang của mái phẳng, và trên trụ ấy thường có một cái xích đông nhỏ để đặt chiếc đèn dầu; như vậy, đèn soi sáng tất cả phòng hoặc nhà (Ma-thi-ơ 5:15).
Nếu nhà có hai phòng, thì hai phòng ấy không xây liền cạnh nhau; nhưng ở giữa có một khoảng trống rộng bằng một phòng. Cũng xây một bức tường nối hai phòng ấy, và như vậy, nhà có một cái sân.
Nếu nhà có ba phòng, thì một phòng chiếm chỗ của bức tường ở cuối sân. Nếu cần có hơn ba phòng, thì họ xây nối vào những phòng kia, và như vậy, làm cho sân dài thêm ra. Ðối với một gai đình đông đúc và vào hạng giàu có, cha mẹ có nhiều con trai đã cưới vợ nhưng vẫn ở chung với mình, thì có thể có nhiều sân cái nọ ăn thông dành riêng cho nhiều gia đình nhỏ đó. Các phòng thường không ăn thông với nhau, nhưng cửa thì đều mở ra phía sân. Ðể che khỏi nắng mưa, người ta xây một dẫy cột có mái chung quanh khu đất hoặc vẩy một cái hiên từ tường ra. Trong một nhà nhỏ chỉ có một hoặc hai phòng, người ta lợp một cái mái bằng lá và cành cây rậm, hoặc bằng những tấm ván cũ, để rủ bóng trên cửa ra vào, hoặc phủ kín một phần sân để che lối vào phòng ở cuối sân. Ðó chắc là phần mái nhà đã bị gỡ khi họ giòng người bại xuội xuống và đặt nơi chơn Ðấng Christ (Mác 2:4).
(3) Mái nhà.- Mái nhà là một hoặc mấy tấm gỗ lớn đặt ngang, rồi có nhiều tấm gỗ nhỏ đặt lên trên. Tất cả phủ bằng một lớp nhược thảo (genêts), cây nhỏ mọc nơi hoang (bruyères) và lau sậy (roseaux); trên hết lại rải đất dày độ mười phân tây. Khi đất đã bị séo, lăn và nện xuống, thì người ta làm cho cái mái nhà phẳng chịu được nước bởi trát một lần vôi hoặc xi măng, và có những lỗ ở ria tường cho nước mưa thoát ra.
(4) Câu lơn nơi mái nhà (Phục Truyền luật lệ ký 22:8) không được người ta xây cất cẩn thận như đáng phải làm, và sự thiếu đề phòng ấy thường gây ra tai nạn. Mỗi góc có xây cột cao chừng hai thước tây; họ giăng giây từ trụ nầy đến trụ kia để phơi quần áo. Trong những nhà có đạo Hồi, khoảng trống giữa các cột góc ấy thường chất những tấm ván hoặc xây gạch có chừa chỗ hở, hầu cho người nhà có thể đi lên mái nhà mà kẻ lân cận không thấy được.
Sẽ bị kể là xấu bụng người láng giềng nào đi quanh trên mái nhà để có thể nhìn xuống sân của các nhà bên cạnh. Trong vòng dân quê thì mái nhà cốt nhất dùng để phơi thóc lúa, phơi quả mùa hạ, và phơi củi để dùng lúc mùa đông (Giô-suê 2:6).
Người ta đứng trên mái nhà mà báo cáo công việc trong làng; và khi có đám cưới, người ta hay hội họp trên mái nhà, tại đó tân khách ca hát và vỗ tay, giậm chơn đều nhịp (Các quan xét 16:27).
(5) Phòng cao (II Các Vua 1:2; 23:12; Mác 14:15; Công vụ các sứ đồ 1:13; 9:37; 20:8).- Ðó là một đặc sắc giản dị của nhà cửa ở phương Ðông. Và là một cách thích hợp với khí hậu. Mùa hè, người ta làm những lều nhỏ bằng lá và cành cây để ngủ ban đêm cho được mát mẻ hơn. Phòng cao cũng dùng như thế, nhưng dùng được mãi mãi. Khi người ta xây nhiều phòng như thế trên mái nhà, thì Kinh Thánh gọi là nhà mùa hạ, khác hẳn với nhà mùa đông ở dưới (Các quan xét 3:20; Giê-rê-mi 36:22; A-mốt 3:15). Trong những nhà lớn cũng có sự thay đổi như thế bởi ở phía đông, và ở phía tây lúc mùa hạ. Người ta lên mái nhà bởi cái thang cục kịch bằng gỗ hoặc bởi những bậc đá, bắc vào phía ngoài tường nhà, hoặc bắc dọc theo một bức tường trong sân. Phòng cao, vì là một nơi tĩnh mịch và mát mẻ, nên hay được xây cất và bày biện tốt đẹp hơn những phòng thường; khách ngủ lại ban đêm thì ở trong phòng cao đó, cho phân biệt với khách chỉ đến chơi chốc lát. Phòng cao xây cho người của Ðức Chúa Trời (II Các Vua 4:15) cốt dùng làm một nơi tĩnh mịch xứng hiệp với chức vụ thiêng liêng và thói quen cầu nguyện của ông ấy.
(6) Phòng cho khách ở.- Người phương Ðông thường không biệt riêng một phòng để khách ở; người phương Tây cho làm như thế là bất lịch sự và hầu như là đuổi khách đi. Người phương Ðông không thích ờ một mình, và ban đêm thích thắp một ngọn đèn con trong phòng. Vì họ cứ để nguyên quần áo mà ngủ, nên không cần có chỗ riêng biệt. Nếu giường khách nằm kê ở phòng cao, thì một vài con trai của chủ nhà cũng kê giường ngủ gần giường kháchcho có bạn. Một người phương Ðông thấy mình bị bỏ lửng khi được tiếp rước cách tự nhiên trong một gia đình Âu Tây; trái lại, một người Âu Tây thấy mình bị lấn áp vì cớ ông chủ nhà phương Ðông luôn luôn có mặt săn sóc đến mình.
Trong những nhà nhỏ thì căn phòng ở đằng cuối sân là phòng khách thường để tiếp những khách tình cờ đến thăm. Phòng nầy thường trống hơn những phòng khác trong nhà.Trong những nhà chỉ có một phòng thì nơi dành cho khách chỉ là một tấm ghế trường ở cuối phòng; đấy là chỗ danh dự mà khách được dẫn đến. Trong những nhà lớn hơn, thì người ta biệt riêng một phòng rộng và bày biện lịch sự ở gần cửa cho tiện, hầu cho khách không phải chờ đợi và người nhà bị làm phiền ít hơn hết. Vì người ta thường đem món giải khát dâng khách, nên phòng cho khách ở cũng làphòng ăn tiệc.
(7) Sàn nhà.- Người ta ít khi tấy sàn nhà bằng gỗ. Ở chốn thôn quê sàn nhà thường là bằng bùn, dùng vồ bằng gỗ mà nện xuống, rồi dùng một tảng đá lớn và dẹp mà xoa cho nhẵn. Cái sàn sạch và bền hơn chính là sàn làm bằng "Xi măng", thức là vọi trộn với đá sỏi nhỏ, và cũng nện xuống theo cách trên kia. Sàn nhà tốt hơn hết là sàn làm bằng những phiến đá vôi vuông. Trong những nhà đẹp ở thành phố, thì những phòng chung cho mọi người lại lát bằng đá hoa trắng, nổi bật bởi những "lằn" đá đen hoặc những hình bằng đá hoa nhiều màu khác nhau. Các sân rộng thường cũng lát như thế, ở chính giữa sân có một chỗ chứa nước (fontaine) bằng đá hoa làm cảnh; cũng chừa ra nhiều chỗ không lát, để trồng cam, chanh, những cây lớn, cây nhỏ xanh tươi luôn và thơm tho.
(8) Ðồ đạc và đồ trang hoàng.- Các bức tường thường làm bằng thạch cao, quét một nước vôi. Nhưng nhà của người giàu có, nhứt là ở thành Ða-mách, thì tường của những phòng chung cho mọi người lại có trang hoàng nhiều hình khảm (mosaĩques) đẹp đẽ bằng gỗ, đá hoa, xa cừ, pha lê và ngà. Những hình trang hoàng thường là những hình kỷ hà học rất phiền phức; song những hình hoa và súc vật cũng thường dùng đến. Thường khi cũng treo gươm, đoản đao và súng để trang hoàng tường. Người ta không thử gián thứ giấy để trang hoàng tường, cũng không thích những hình nhỏ chi chít in trên những giấy đó. Khí hậu nóng nực có ảnh hưởng hay làm cho trễ nải, nên người ta cần có những bức tường để tự nhiên hầu cho tinh thần được sảng khoái. Trong những phòng khách trang hoàng lịch sự thật cũng có ít đồ vật gợi cho ta suy nghĩ về hoàn cảnh êm đềm của một trí óc học rộng biết nhiều. Ta có cảm tưởng rằng tại đó không có cái điều mà chủ nhà cần đến và tự nhiên hưởng được trong tòa nhà đẹp đẽ của mình, nhưng chỉ có cái điều mà người giàu muốn phô bày với khách đến thăm mình. Những tấm thảm đẹp bằng lông chiên, lông dê và lụa trải trên sàn nhà bằng đá hoa; một tấm ghế trường chạy suốt ba phía trong phòng; những gối có bao bằng bông, lông chiên, lụa và kim tuyến do người bổn xứ dệt. Mọi đồ vật đó với một cái gương lớn treo ở góc phòng, một cây đèn nhiều ngọn bằng thủy tinh treo nơi mái nhà, một chỗ đựng nước (fontaine) bằng đá hoa thường khi đặt ngay dưới cây đèn, một vài cái bàn khảm nhỏ bày ở đây đó, đều là những thứ trang hoàng thông thường trong một phòng khách phương Ðông.
(9) Cửa.- Cửa là một chỗ thánh khiết và quan hệ đặc biệt. Phía ngoài cửa và phía trong cửa là hai chỗ khác nhau như hai thế giới vậy. Trong những nhà lớn thì người canh cửa ngồi ngay chỗ đi vào để trả lời kẻ hỏi thăm và để dẫn khách vào trong nhà. Ban đêm người canh cửa ngủ trong một phòng nhỏ, ngay lối đi vào, bên cạnh cửa để canh giữ mọi khu trong nhà. Hắn giống như người canh giữ cổng thành và vườn nho. Hắn có trách nhiệm che chở người nhà, nhưng vẫn không thuộc trong vòng bà con. Sau khi đua khách đến cửa phòng khách rồi, hắn lại lui về chỗ gác. Thi Thiên 84:10 có ngụ ý nói đến địa vị hèn hạ và ngoại nhân của người gác cửa đó.
Trong những nhà nhỏ hơn không có người gác cửa, thì có một đầy tớ hoặc một người nhà đứng trên bao lơn mà hỏi to rằng: "Ai đó?" Nếu là một người bà con, thì khách trả lời rằng: "Mở cửa!" Nếu là một người bạn thân, thì khách hỏi to rằng: "Tôi đây." Nhận biết là tiếng nói của ai thì đủ rồi (Công vụ các sứ đồ 12:13).
(10) Cửa sổ.- Người ta mới dùng cửa sổ có mặt kính được ít lâu nay, Cửa sổ ở phương Ðông thường có những song gỗ để gìn giữ cho khỏi bị quấy rầy và trộm cắp; nửa dưới cử sổ lại có một tấm bình phong che khuất, để người trong nhà có thể nhìn ra ngoài mà không ai trông thấy mình được. Ban đêm cửa sổ đóng bằng then gỗ, cốt nhất để được yên ổn và tỉnh mịch, và một phần cũng để tránh ánh sáng và ánh nắng mặt trời lúc sáng sớm. Vì cớ đó ở Ma-la-chi 3:10 có ngụ ý nói đến sự mở cửa sổ. Ở phòng cao thì không cần có song gỗ, vì khách qua đường không nhìn tới hoặc với tới được; cho nên có thể xảy ra những việc như có chép ở Giô-suê 2:15; I Sa-mu-ên 19:12; Công vụ các sứ đồ 20:9. Nhà ở thành phố thì cửa sổ thường không trông ra ngoài đường; nhưng bao lơn của các từng trên lại thường trông ra ngoài đường,- các bao lơn ấy có cửa sổ trông ra rất xa và nhận được luồng gió từ cả hai phía. Trong những nhà ấy bình phong vần là một món trang hoàng lịch sự. Các vò đựng nước uống thì đặt gần các cửa sổ ấy để có luồng gió làm cho mát mẻ. Vì trường hợp đó, nên những bình phong có tính cách trang hoàng được gọi là mashraîyel, do tiếng A-rạpmashrab, nghĩa là một chỗ để uống nước. Trong các phòng sách của nước Anh thường thấy một cái bình phong có mỹ thuật, nhưng không có quan hệ với công dụng nguyên trước của nó.
Kinh Thánh chép rằng bà mẹ của Si-sê-ra bồn chồn nhìn qua cửa sổ như thế để chờ con trai mình không hề trở lại (Các quan xét 5:28).
Trên cổng thành phố hoặc nơi đi vào các đồn lũy có một cửa sổ nhỏ đặt trong tường hoặc trong chòi canh, từ chỗ đó người canh gác có thể nhìn thấy mọi kẻ đến gần mà chính mình không bị nguy hiểm gì cả.
(11) Sửa soạn đi ngủ.- Người phương Ðông nhóm họp để đi ngủ, chớ không phải ai lui về phòng nấy để đi ngủ. Vậy nên trong thí dụ ở Lu-ca 11:7 có nói người cha thoái thác rằng con cái ngủ với mình, - chúng ngủ trên những đệm trải trên sàn nhà, chung quanh giường của cha. Khi đến giờ ngủ, họ mở tủ, rương hoặc hốc tường để lấy những đồ dùng trên giường ngủ. Mỗi một cái đệm đều nhồi bông hoặc lông chiên; phụ vào mỗi cái đệm lại có một cái chăn trải giường dầy bọc bằng vải cát ba hoặc lụa màu, và khâu thành những đường dọc hoặc tréo. Khi ngủ, người phương Ðông dùng chăn trùm cả đầu lẫn thân thể. Trong những sự thánh của đời sống người phương Ðông, có khoản không được khuấy rối giấc ngủ hoặc làm giở bửa cơm của ai. Phải khó khăn cực điểm mới bảo được một tên đầy tớ Sy-ri đánh thức chủ hắn lúc trời còn mờ sáng. Khi một người theo Hồi giáo đánh thức bạn đồng đạo, thì người chỉ hô lên rằng: "Ðức Chúa Trời là độc nhất!" Tuyên bố cái chơn lý tối cao ấy thì người tin Hồi giáo bao giờ cũng cho là hợp thời, và chỉ kẻ vô tín mới có thể phản đối sự tuyên bố ấy.
2. Ðồ ăn.
I. Bánh.- Món ăn cốt yếu là bánh, và trong vòng dân quê và dân lao động ở thành phố thì công việc cốt yếu trong gia đình là làm bánh.
(1) Vo sạch.- Lúa mạch mới ở sân đạp lúa đem đến thì phải sàng sảy cẩn thận và khéo léo (Ê-sai 30:28; A-mốt 9:9; Lu-ca 22:31), để cất bỏ những hột sạn cùng viên đất nhỏ, và nhứt là để loại hết những hột nhỏ có chất độc, những cỏ làm hại lúa (nielle), những cỏ lòng vực (ivrai), các thứ nầy có rất nhiều trong những khu ruộng có gai và không được chăm nom cẩn thận (Ma-thi-ơ 13:7). Lời Ðức Chúa Jêsus cầu nguyện cho Phi-e-rơ ấy là cốt cho đức tin của ông không bị quăng vào đống vô dụng.
Ðoạn, người ta vo lúa mạch để cho nó sạch hết bụi bám, rồi đem phơi trong những tấm vải trải trên mái nhà. Ðoạn, người ta thâu trữ lúa ấy để gia quyến dùng; họ đựng trong những thùng nhỏ giống như những máy làm bơ. Thùng ấy làm bằng mây hoặc đất sét, có một chỗ hở gần dưới do đó có thể lấy số lúa mạch cần dùng mỗi lần. Những số lúa mạch lớn hơn, phải giữ để làm bột hoặc để gieo mùa sau, thì chứa trong những bể dưới đất hoặc những giếng khô có miệng rất hẹp. Miệng phải che lấp thật kỹ, đến nỗi chỉ có chủ nhà biết bể hoặc giếng ở vào chỗ nào.
(2) Xay.- Khi lúa tiểu mạch hoặc đại mạch phải xay để đem đi chợ bán, thì họ đem đến cối xay; cối xay ở một vài chổ làm việc quanh nănhững nhưng thường thì chỉ làm việc lúc mùa đông, bây giờ mới có đủ nước để xoay bánh xe của cối xay.
Cối xay bằng tay có hai phiến đá tròn, đường kính chừng 45 phân tây, mặt phiến đá ở dưới thường hơi khum khum, còn phiến ở trên thì hơi lõm cho vừa vặn với phiến ở dưới. Phiến ở dưới thường làm bằng đá vôi hoặc bằng huyền vũ nham (basalte), và vì dầy hơn nên cũng nặng hơn phiến ở trên; phiến ở trên làm bằng phiến thạch lỗ chỗ (lave poreuse), hầu cho bề mặt khỏi bị mài nhẵn vì cớ sọ sát. Ở một bên, gần vành tròn; phiến đá ở trên có một cái chốt bằng gỗ. Hai người đàn bà ngồi đối mặt nhau, mỗi người một tay cầm lấy cái chốt mà xay lúa mạch. Giữa phiến đá dưới nổi lên một cái trục, lắp vào cái lỗ ở giữa phiến đá trên, và bởi đó giữ cho phiến đá trên khỏi xê xích. Sự xay cối bằng tay có nói đến ở Xuất Ê-díp-tô ký 11:5; Các quan xét 16:21; Ca thương 4:13; Ma-thi-ơ 24:41. Cấm không được giữ cối xay bằng tay làm vật bảo chứng (Phục Truyền luật lệ ký 24:6). Ngày nay họ vẫn còn cho làm như thế là đáng xấu hổ. Gióp 41:15 có nói đến phiến đá dưới là cứng. Sự dời cối xay đi chổ khác là một trong các sự suy vi của dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày (Giê-rê-mi 25:10); tiếng ròn rã, vui vẻ của cối xay mà ngừng lại, ấy là một sự khoái lạc qua mất, như có nói ở Phục Truyền luật lệ ký 12:3-4.
Bánh ở phương Ðông giống như mấy thứ bánh của người Âu, Mỹ hay ăn buổi sáng. Bánh không làm lớn để dùng dao mà cắt đâu, nhưng người ta dùng tay mà bẻ (Ma-thi-ơ 26:26; I Cô-rinh-tô 9:24).
(3) Trong gia đình người ta hay hấp bánh theo ba cách:
a) Bánh làm bằng bột nhào thì để trên tro nóng hoặc đá đã nung (Sáng thế ký 18:6; Xuất Ê-díp-tô ký 12:39; I Các Vua 17:12; 19:6; Giăng 21:9). Ðó là cách cổ sơ hơn hết, và rất gần như ăn hột lúa rang chưa rắn đương lúc gặt hái (Giô-suê 5:11; Ru-tơ 2:14). Sau khi ngâm nước, lúa mạch lại thường đựng trong chảo, bắc trên lửa cho đến khi nó thật khô. Rồi người ta xay qua loa, như bột hương mạch rất thô hoặc như lúa mạch giã dập. Người ta dùng bột ấy nấu một thứ xúp, và thường nấu với phạn đậu. Vì lúa mạch có chép chung với phạn đậu ở II Sa-mu-ên 17:28, nên chắc đó là một món ăn nướng trong các thứ mà Bát-xi-lai đem dâng Ða-vít. Lúa mạch mịn thì là một thứ tạp hóa thường dùng trong nhà, gọi là semolina, mà người phương Ðông cũng dùng để làm nhiều thứ bánh ngọt và kẹo.
b) Thỉnh thoảng họ làm một cái lò hấp bánh theo cách nầy: Bỏ chất bắt lửa, như cỏ, gai gốc và cành con vào một cái vò bằng đất, và khi vò đã nóng đủ thì để những miếng bánh mỏng vào phía ngoài vò. Nhiều khi họ lại đào một cái hốc dưới đất, chung quanh trát thạch cao, rồi cũng bỏ củi và cỏ vào đó, thêm mấy hòn sỏi to để giữ sức nóng. Khi nào khói và lửa để lại một đống than hồng, thì họ để những miếng bánh to và mỏng chung quanh thành hốc, chỉ trong một hai phút là nướng chín.
c) Cũng có một tấm sắt thưa và cong lên như thứ dùng để nướng bánh hương mạch. Giữa trời, họ kê tấm sắt nầy trên hai hòn đá, dưới đốt lửa, rồi nướng những bánh nhỏ trên đó.
(4) Bánh ngọt.- Người ta làm được nhiều thứ bánh mì và bánh ngọt bởi những cách sáng chế giản dị nầy và ở trong lò người thợ làm bánh mà chúng tôi đã mô tả. Trước khi đem đến lò hấp, những bánh mì rẻ tiền thường dùng dầu đánh trên mặt và rắc những thứ bột thơm. Còn bánh ngọt thì thường nhúng hoặc rán với dầu nóng sôi. Những bánh mỏng thì không men thường làm rất cẩn thận - cẩn thận đến nỗi hóa ra kỳ cục - cho khỏi đụng tới một chút men nào; người Do Thái ăn bánh không men trong tuần lễ Vượt qua (Xuất Ê-díp-tô ký 14:31; Lê-vi ký 6:21; 7:12; I Sử ký 23:29).
II. Nước.- Bánh quan hệ thứ nhứt, nước quan hệ thứ nhì. Người phương Ðông uống nhiều nước, cả khi dùng bửa và những lúc khác. Khi ngồi ăn, họ luôn luôn chuyền cho nhau cái vò nhỏ xách tay. Họ có thể uống nước nơi miệng vò hoặc nơi cái vòi nhỏ của vò mà không cần phải ghé sát môi miệng vào. Theo cách xã giao củ người phương Ðông, khi uống nước, cần phải cẩn thận để ý đến cảm tình riêng của kẻ khác. Một những Ba Tư theo đạo Hồi thì coi cái vòi đã bị môi miệng của một môn đồ Ðấng Christ đụng đến là ô uế, và lập tức ném vò xuống đất. Người phương Ðông có tài phân biệt các thứ nước khác nhau, tài ấy kỳ lạ đến nỗi người phương Tây không hề biết tới. Trong một thành phố có nhiều giếng nước công cộng, họ có thể nói rất quả quyết thứ nước trong vò đã múc từ nơi giếng nào. Kẻ xách nước không dám thử lừa dối những kẻ dùng nước của mình. Những kẻ ăn mày ngoài cửa thường xin cho uống nước. Người Y-sơ-ra-ên cần dùng nước thật là cấp bách đặc biệt. Ban đêm họ để nước gần bên giường cho dễ với lấy. Buổi sáng, người ta thấy Sau-lơ mất cả cây giáo lẫn bình nước (I Sa-mu-ên 26:11). Khi Ða-vít mong mỏi uống nước giếng thành Bết-lê-hem (II Sa-mu-ên 23:15), ấy chẳng những vì nó có liên lạc với những ngày sung sướng, bình tĩnh của ông, nhưng cũng vì ông nhớ rõ cái vị đặc biệt của nó. Vậy có một tục ngữ gồm tóm tất cả sự an lạc của một người thạnh vượng và tự mãn rằng - "Bánh hắn đã hấp và vò hắn đã đầy".
Hai sự đoán phạt Y-sơ-ra-ên đã được tuyên bố bởi những chữ tỏ ra nước rất cần cho sự sống và nước làm cho mát mẻ (Giê-rê-mi 2:13, 18). Cũng hãy xem Dân số Ký 20:3; I Các Vua 13:8; 17:10; 19:6; Châm Ngôn 25:25; Ê-sai 35:6; A-mốt 8:11; Ma-thi-ơ 5:6; 10:42.
III. Thịt, cá, sữa và quả.- Một món thường hay ăn hơn hết trong nhà là những miếng thịt thái nhỏ hầm với đậu, cà chua, ruột các thứ rau, và nhiều thứ khác nữa. Ðể món đó vào dĩa, và mỗi người lấy dùng: Họ cầm thìa mà múc, lại nhúng thêm vào một miếng nhỏ mới bẻ ở cái bánh mỏng ngay bên cạnh mình. Họ làm như thế rất là khéo léo. Nếu đưa một miếng ấy cho kẻ đồng bàn, ấy là bằng cớ của tình bằng hữu thân thiết (Giăng 13:26). Cũng thường hầm con chiên nhỏ hoặc con dê nhỏ với sữa. Người A-rạp gọi món ăn nầy là sữa mẹ, và khi ăn món ấy, họ hay kể một điển cố để binh vực cách làm trái luật từ ngàn xưa đó (Xuất Ê-díp-tô ký 23:19). Trong một bữa tiệc ở phương Ðông hay có con chiên con hoặc con dê con quay nguyên cả, đầu và chơn bó lại gần với nhau, và trong bụng nhồi gạo và món gia vị. Họ để tất cả trên cái mâm lớn và bưng ra ăn. Thịt đã ninh nhừ đến nỗi dễ rời khỏi xương, và ai muốn ăn phần thì lấy tay mà gỡ. Về món ăn nầy cũng như về món bánh nhúng nước hầm, ông tù trưởng hoặc ông chủ nhà hay lấy một miếng ngon mà mời một người khách để tỏ lòng quí mến, vì nể đặc biệt.
Có một tiếng Hê-bơ-rơ chỉ về đồ ăn, là tereph, tức là thịt một con thú bắt ở trong bầy (Châm Ngôn 31:15). Người nội trợ gương mẫu trong dân Y-sơ-ra-ên chọn một con dê con hoặc con chiên con để dọn bữa tối cho gia đình trước khi cả bầy được dẫn đi ăn cỏ lúc mới hừng đông.
Một món ăn phổ thông của xứ Sy-ri là thịt bằm nhỏ với lúa mạch xay qua loa, bỏ vào cối giã và cho thêm đồ gia vị. Rải ra dày độ ba phân tây trong một cái chảo nông; dùng dao khía thành những miếng hình hạt ngọc, phết thứ bơ mà người bản xứ dùng để nấu nướng, rồi đem đến lò để hấp. Dường như có ngụ ý nói đến món ăn nầy ở Châm Ngôn 27:22, tại đó nói rằng một người ích kỷ, ngu dại, đa nghi sẽ chẳng mất cá tính mặc dầu đã bị cơn thử rèn và nghịch cảnh "xay giã".
Một món ăn khác hết sức ngon lành ở phương Ðông chính là món ăn đã có ảnh hưởng tai hại hơn hết cho Ê-sau (Sáng thế ký 25:34). Phạn đậu phải ngâm và nấu với nước, tùy sức nó thấm hút được. Rán những miếng hành nhỏ với dầu cho đến khi hành hơi đỏ, rồi cho vào phạn đậu. Lúa mạch giã dập hoặc gạo thường nấu chung với phạn đậu. Khi phạn đậu đương chín, mùi thơm ngào ngạt, khiếm cho người đói thèm thuồng không sao nhịn được.
Người phương Ðông không quen nấu xúp: Khi thịt sôi, thì nước thành ra một thứ nước "sốt" (sauce) đặc để ăn chung với thịt. Ðó là sự đun, nấu có nói đến trong Kinh Thánh.
Các loài gia cầm thì quay và hầm. Theo ý tưởng của Châm Ngôn 15:17, một tục ngữ A-rạp nói rằng: "Thà có một miếng bánh và một củ hành mà bình an còn hơn là có gà vịt nhồi mà cãi lộn".
Ở phương Ðông ta nghe nói đến con heo hơn là chính mắt thấy nó. Người ta luôn luôn nói đến con heo, cho là một tiếng khinh bỉ và chửi mắng, nhưng thịt nó thì thỉnh thoảng mới có môn đồ của Ðấng Christ ăn. Vì heo hay dầm bùn và vì người ta không cẩn thận quét dọn rác rến, nên trong xứ nóng nầy thịt heo thành ra một món ăn cấm và ai cũng không muốn ăn, trừ khi món ăn ấy được nấu nướng rất tinh khiết. Cả đến thịt heo rừng ăn vào nhiều khi cũng sinh ra dun sán rất là tai hại.
Các người bổn xứ theo đạo Ðấng Christ thường ăn thịt sống của chiên và dê. Trái lại, vì quá cẩn thận muốn bỏ hết máu, người Do Thái xát muối vào thịt trước khi nấu nướng.
Có rất nhiều cá ở Ðịa Trung hải và biển Ga-li-lê, nhưng nhà nước đánh thuế bán cá rất cao, có ý hạn chế nghề ấy; vì tín đồ Hội thánh phương Ðông chỉ được ăn cá trong ngày thứ sáu, người ta cho ăn cá là thấp kém và khiến cho suy nghĩ về sự sám hối.
Ngoài sự ăn tươi ra, người thường còn làm cho sữa đặc lại bởi cách khiến nó có một cị chua mát. Chắc Giô-ên đã cho Si-sê-ra uống sữa giải khát chế theo cách ấy (Các quan xét 4:19; 5:25). Người ta lắc váng sữa (crème) trong những bầu da cho đến khi thành ra bơ (beurre). Bơ đun sôi thành ra bơ để nấu nướng, đựng trong vò để dùng quanh năm.
Trong các sách A-rạp kể sự du lịch, thứ bơ nầy gọi là saman hoặc samăni; ở Ấn Ðộ thì gọi là ghe-cheese. Người ta luôn luôn dùng nó theo nhiều cách chế hóa khác nhau (I Sa-mu-ên 17:18).
Rau trộn thì dùng rau cần tây, rau diếp, rau diếp quăn, lá cối xay, rau húng, dưa chuột. Người ta dùng đủ các thứ rau rất nhiều, và người phương Ðông rất khéo chế nước sốt (sauce) chua, cay và thơm rẻ tiền. Nhằm lễ Vượt qua, người Do Thái có một thứ nước sốt giống như nước vôi loãng hoặc phấn hòa nước. Họ nhúng các thứ lá đắng, như rau diếp quăn mọc ở rừng vào nước sốt ấy để kỷ niệm thời kỳ làm tôi mọi ở xứ Ai Cập.
Các quả tươi thì ăn lúc đương mùa, nho và cam giữ được lâu hơn hết; quả ăn với bánh, ấy tức là bữa cơm của người lao động. Vả, nho khô, hột giẻ, hạnh nhân, lạc, là những quả thường hay phơi khô hơn hết (Sáng thế ký 43:11; I Sa-mu-ên 25:18).
Kinh Thánh chép rằng Giăng Báp-tít ăn châu chấu; người A-rạp ở đồng vắng phương nam dùng châu chấu như một món ăn khổ; họ ngắt càng châu chấu và đem ướp muối.
IV. Bửa ăn chính nhằm một lúc sau khi mặt trời lặn. Tinh thần và thân thể nghỉ ngơi, ấy là điều người phương Ðông cho là cần yếu để ăn ngon, và là điều kiện để được tươi tỉnh và bổ sức cho bởi món ăn. Ấy nghĩa là phải làm xong việc trong một này rồi. Nông phu làm việc trong đồng ruộng cách làng xóm một đỗi đường; người buôn bán thì dọn hàng ở nơi ngoại châu thành; họ không thể về nhà mà ăn cơm buổi trưa. Lại nữa, khí hậu nóng nực, không thể giữ thịt luôn trong nhà, mỗi ngày phải đi mua đồ ăn. Vậy nên đối với đờn ông và đờn bà, bữa cơm tối là thì giờ gia đình sum họp và giải trí. Người ta lấy gối ở ghế "đi văng", bày chung quanh cái mâm đã đặt trên một bàn nhỏ và thấp. Ăn bánh với mọi thứ đồ ăn khác, và ăn bánh bất cứ lúc nào trong bữa cơm cũng được. Mỗi người khách hoặc người nhà có mấy cái bánh mỏng để bên cạnh mình, thường là ba cái.
Vì lẽ trên đây, mọi món nấu thường ăn vào bữa cơm tối. Có một tục ngữ rằng: "Khách đến buổi tối thì chẳng được ăn bữa tối". Khánh có thể xin ngủ nhờ bất luận lúc nào, nhưng nếu đến sau buổi tối mà không báo trước, thì không thể viện luật lệ cho trọ mà xin cho ăn. Nhưng theo phép lịch sự ở phương Ðông thì thà khuấy rối người láng giềng còn hơn để cho khách lạ phải thất vọng (Lu-ca 11:5).
Khi nào có bữa tiệc lớn, không thể đãi đằng mọi người một lúc, thì họ ngồi chung quanh bàn thành mấy phiên thứ; phiên thứ nào ăn xong thì đứng dậy, nói lời cám ơn chủ tiệc, rồi nhường chỗ cho phiên thứ khác.
Trong những bữa ăn gia đình, phụ nữ thường phải hầu hạ; trong những gia đình giàu có hơn thì có đầy tớ hầu hạ người nhà và khách khứa. Ta thường thấy những đầy tớ thường trực trong gia đình ở giữa vòng người Âu tây hoặc giữa vòng người Ðông phương đã theo phong tục của người Âu tây.
Nguyên xưa trong những gia đình cao quí của xứ, thì việc ấy do các bà con nghèo khó làm, họ thỉnh thoảng nhận được món tiền bù lại công khó; hoặc cũng do bọn tôi mọi bắt được khi chiến tranh hay là mua ở chợ. Ta thấy sự giúp việc lối cổ như thế là đồi bại, vì cha mẹ bất đắc dĩ mới phải cho con gái đi ở làm tôi tớ, va người ta thường hay không trả tiền công của tôi tớ. Khi có đám khách người phương Ðông đi vào trong phòng từng người một , hoặc ngồi trên "đi văng", hoặc ngồi ở bàn, thì họ phải chú ý đặc biệt đến thứ bậc do tuổi tác, gia thế, và chức vị trong xã hội. Họ mất một ít thì giờ để nói nhún mình, người nọ tôn người kia là cao quí hơn mình. Trong vòng người Do Thái một người thông thạo luật pháp thì dẫu tiền của kém cỏi, cũng vẫn được kể là cao quí hơn một người giàu, nhưng có địa vị thấp kém trong tôn giáo. Phe Pha-ri-si đã lạm nhậm và lạm dụng lòng người tôn kính công việc Ðức Chúa Trời, nên phe ấy mới đòi ngồi chỗ danh dự trong những hội nghị về xã hội và tôn giáo. Một tục ngữ A-rạp bày tỏ ý tưởng của Lu-ca 14:10, mà rằng: "Chớ ngồi chỗ của người nào có thể bảo mình rằng: Ðứng dậy!" Ðể tỏ lòng kính trọng, chủ nhà thỉnh thoảng chính thân hầu hạ khách khứa.
Ăn xong, phải rửa tay theo lối thông thường ở phương Ðông, tức là có người cầm bình nước dội vào tay. Các đầy tớ dội nước cho khách, và lúc thường thì người nhà dội lẫn cho nhau. Sách II Các Vua 3:11 có nói đến thói tục nầy.
3. Y phục.- Y phục ở phương Ðông khác với y phục ở phương Tây về vật liệu, hình dáng và màu sắc. Vật liệu thông thường nhứt là vải bông, hoặc để trắng, hoặc nhuộm màu lam; nhưng lụa thì dùng nhiều để may áo choàng ngoài của đờn ông. Người phương Ðông thích cái áo dài lướt thướt trùm cả thân thể hơn là bộ y phục có nhiều cái nhỏ, ngắn hơn. Ðờn ông và đờn bà đều mặc các màu rực rỡ hơn những màu hiện nay thường thấy ở phương Tây. Khí hậu nóng bức là cớ chính khiên người ta ưa chuộn y phục nhe, rộng và có màu sắc rực rỡ.
Trong y phục ở phương Ðông, sự thích trang sức cũng là điều quan trọng lắm. Áo dài lụng thụng tôn vẻ con người, và các vật phẩm (articles) khác nhau, và nhất là những kiểu khác nhau của áo choàng ngoài, vẫn cốt để phân biệt thứ bậc trong xã hội.
Nếu ăn mặc theo kiểu Âu tây, thì mất hết mọi sự đó, nhưng trái lại, được kể là có học vấn và văn minh cao hơn. Phải nhận xét rằng vì cớ những phong tục và những sự chế tạo bằng máy móc của Âu tây tràn vào, nên trong thế đại (génération) nầy y phục của dân Sy-ri thay đổi nhiều hơn là trong một ngàn năm trước. Thời kỳ giao thừa nầy thường khi làm chướng con mắt phong nhã của người phương Ðông và người phương Tây. Một bà bận y phục theo kiểu tối tân của Âu châu, nhưng lại chọn màu rực rỡ của phương Ðông. Cũng một thể ấy, một ông mặc áo ba-đờ-suy(pardessus) theo lối Âu tây, lại tưởng rằng sẽ đẹp hơn vì chỉ khoác lùng thùng vào vai như cái áo choàng của phương Ðông, để hai ống tay áo rỗng lủng lẳng ở hai bên.
Nguyên thủy ở phương Ðông y phục có áo lót mình và áo choàng ngoài. Hai thứ áo nầy vẫn còn là y phục thường dùng của người Bédouins. Sự sửa đổi hai áo đó và sự thêm các thứ áo khác là do cuộc sinh hoạt văn minh hơn ở làng mạc và thành phố, và do tiếp xúc với các nước khác. Mô tả qua loa các thứ y phục mà hiện nay người ta đang dùng ở xứ Sy-ri, thì sẽ giúp chúng ta hiểu nghĩa đen và nghĩa bóng của sự ăn mặc mà Kinh Thánh đã nói đến.
(1) Áo lót, tấm vải và áo bằng vải (Các quan xét 14:12; Châm Ngôn 31:24; Ê-sai 3:23; Mác 14:51). Dân xứ Pha-lê-tin, và cả đến dân Ai Cập ở gần họ trong một xứ nóng bức hơn, thỉnh thoảng choàng thân thể rất kín đáo và đẹp mắt bằng một tấm vải bông rộng hoặc bằng lông chiên. Họ quấn quanh thân thể và để thõng một đầu ở ngang vai. Về y phục ở phương Ðông có một sở thích đặc sắc như thế nầy. Họ không thích múi, gim và móc, nghĩa là bất cứ cái gì làm cho y phục của họ phải chặt chẽ, gọn ghẽ. Ở xứ nóng, hể thứ y phục nào sát vào người và chặt chẽ quá thì sẽ làm cho đổ mồ hôi và khó chịu. Áo lót mình thường làm một cách rất giản dị. Một mảnh vải dài gấp làm hai phần đều nhau, hai cạnh khâu lại, để chừa hai lỗ ở trên để xỏ hai cánh tay; một chỗ hở khác để chui đầu và cổ vào, ấy thế là xong cái áo lót mình. Nếu áo lót có tay, thì tay áo dài tới gần cổ tay, và có những giải dài thõng xuống quá đầu gối một chút. Những giải đó dường như chướng ngại, nhưng thật ra thì thuận tiện lắm, vì khi đờn ông đánh nhau hoặc làm việc lao động, và khi đờn bàvắt sữa bò, quét tước hoặc xay lúa, thì họ buộc giải vào sau cổ, làm cho tay áo lật lên và không vướng víu. Ðó là biểu hiệu về sự hoạt động, tỉ như khi tiên tri Ê-sai nói rằng: "Ðức Giê-hô-va đã tỏ trần cánh tay Ngài" (Ê-sai 52:10).
Có khi cổ và phần dưới phía trước áo lót có viền lụa màu đen, vàng, xanh lá cây và đỏ cho đẹp, vì người ta trông thấy phần đó của áo lót mỗi khi nào chỉ coàng một cái áo rộng của kẻ chăn chiên lên trên. Khi nào có mặc một cái áo khác nữa ở giữa áo lót và áo choàng ngoài, thì áo lót làm bằng vải bông mịn. Nếu chỉ mặc thêm một cái áo choàng ngoài, thì áo loát phài có dây buộc. Khi người đờn ông làm việc mùa hạ như cưa gỗ, đánh cá và nhào đất sét cho người thợ gốm, thì áo lót mình chỉ là một tấm vải quấn quanh nửa người và xuống tới đầu gối. Bất luận cái áo lót mình rộng hay hẹp, nếu người chỉ mặc có một áo ấy thì họ cho là đương ở trần (Giăng 21:7).
(2) Áo choàng.- Áo choàng chính là áo mặc trùm ngoài cả, và thường không có dây nịt lưng buộc lại. Nó là áo mặc ngoài của lữ khách và người chăn chiên ở phương Ðông. Ta luôn luôn thấy những vạch đen và trắng trong những tranh vẽ sự sinh hoạt ở phương Ðông. Vì nó rộng, có ích và đắt tiền, nên nói cách chung, nó làm đại biểu cho sự phục sức. Người ta dùng hai tấm vài thường là vải dày bằng lông chiên, mỗi tấm dài chừng hai thước và rộng chừng 60 hoặc 75 phân tây. Hai tấm đó khâu lại với nhau, và ở một đầu của mỗi tấm thì khâu gập lại chừng 45 phân tây. Như vậy, tấm vải còn chừng bốn thước vuông. Phần khâu gập đó người ta viền lại ở trên đầu, và mỗi góc cho khoét một lỗ để xỏ tay vào. Thỉnh thoảng áo choàng làm bằng nguyên một tấm vải rộng, không có đường may ở sống lưng. Ðó chắc là cái áo không có đường may (Giăng 19:23).
Nếu áo choàng may mỏng để che cho khỏi bịu và ánh nóng, thì gọi là burnous; nếu là áo choàng của các tù trưởng oai quyền, may bằng vải lông chiên đen, đằng trước và đằng sau có thêu màu sặc sỡ, thì gọi là mashlach. Áo choàng thông thường hơn hết thì may bằng vải lông chiên, lông dê hoặc lông lạc đà, dệt có nhiều dọc lớn màu đen và màu trắng. Ðó là cái abaa của người chăn chiên và người nhà quê, là áo choàng mặc ngày và đêm, không ai được phép giữ làm đồ cầm cố (Xuất Ê-díp-tô ký 22:26). Người nhà quê cũng có một thứ áo choàng nhỏ hơn một chút và thuận tiện hơn, có dọc trắng và đỏ, may bằng vải lông chiên hoặc vải bông, dầy như vải may buồm thuyền. Thứ áo choàng nầy có tay ngắn, và khi làm việc đồng áng thì có dây lưng buộc lại. Có nói đến cái áo choàng ờ Sáng thế ký 25:25; Giô-suê 7:21; II Các Vua 2:14; Ma-thi-ơ 3:4; 5:40.
(3) Áo ngắn.- Áo ngắn mặc trên áo lót, dài bằng áo lót, nhưng phía trước xẻ hở. Dầu vẫn là mỏng, nhưng nó làm bằng vật liệu tốt hơn cái áo lót. Hai mảnh phía trước gấp lên nhau có dây buộc lại, làm thành một cái bọc hoặc một cái túi để đựng các vật cho chắc chắn. Nó giống như cái áo của ông cố đạo, hoặc như cái áo ngủ thắt chặt; nó là cái áo thường thấy hơn hết ngoài phố xá ở phương Ðông. Người mặc áo ngắn thì kể là có áo che thân, nhưng chưa phải là đã ăn mặc chỉnh tề. Trong nhà, trong cửa hàng, và thợ thuyền đi dạo trong thành phố, thì chỉ cần mặc cái áo ngắn cũng đủ. Áo ngắn và áo choàng đối chiếu nhau ở Ma-thi-ơ 5:40 và Lu-ca 6:29.
Theo cách phục sức củ phương Ðông, cái áo ngắn nầy thường hay chia làm hai phần ở chỗ thắt lưng: phần trên là một cái áo đuôi tôm (jaquette) hoặc áo khách (vest) ngắn làm bằng vải quí hơn và dày hơn, thường có thêu thùa rất tinh xảo theo kiểu ê-phót của thầy tế lễ; còn phần dưới thì đổi thành ra cái quần lót. Ðể được như vậy, người ta may một cái bao rộng, mỗi bên có một lỗ hổng để xỏ chơn vào; chỗ ngang lưng thì có sợi dây xỏ qua đường viền thắt lại. Xuất Ê-díp-tô ký 28:42 và Ða-ni-ên 3:21 (theo bản Revised Version, tiếng Anh) có nói đến thứ quần lót nầy.
(4) Áo dài.- Thêm vào cái áo ngắn mặc trên áo lót, còn có một áo khác mặc trên áo ngắn: cũng có hình giống như áo ngắn, nhưng rộng hơn và mặc buông tự nhiên chớ không có dây thắt. Nhưng áo dài may bằng thứ hàng tốt hơn áo ngắn, thường là may vải lông chiên, thỉnh thoảng lại lót bằng da thuộc có lông (fourrure). Có thể coi áo dài như là áo choàng, vì ở thành phố, trong vòng những kẻ nào mặc áo dài, thì áo dài cũng là đồ mặc nơi công chúng và làm cho y phục được tề chỉnh, đầy đủ y như áo choàng rộng và vuông vắn ở chốn thôn quê. Trong vòng người Hồi giáo, thì áo dài là áo chức nghiệp của các quan chức nhà nước và các viên chức trong tôn giáo. Các thầy cả trong Hội thánh phương Ðông cũng mặc áo dài. Ở xứ Ai-cập thì thường là cái áo dài rộng màu đen,không xẻ ở đăng trước, giống như áo trắng của thầy tu (surplis); như vậy thì nó giống cái áo lót của người chăn chiên mặc đời xưa. Có một lỗ hổng để chui đầu và cổ vào, và có sợi dây thắt lại; cũng có những nếp dài làm tôn vẻ con người lên. Cái áo dài nầy khiến ta suy nghĩ đến ái áo dài có ê-phót của thầy tế lễ thượng phẩm (Sáng thế ký 28:31, 32). "Áo dài" của Giô-sép (Sáng thế ký 37:3) có lẽ là áo lót của người chăn chiên có thêu đẹp đẽ, hoặc có lẽ là áo dài mặc trùm ra ngoài cả, thay cho cái áo choàng rộng của người chăn chiên thường mặc. Các đoạn Kinh Thánh sau nầy có nói đến cái áo dài: II Sa-mu-ên 2:19; 15:27; 18:4; 24:4; Ê-sai 3:4; Lu-ca 20:46; Khải huyền 7:13. Theo tiếng A-rạp, "áo dài" có nghĩa là "áo trao đổi", và luôn luôn ý chỉ về sự sinh hoạt trong xã hội, phẩm trật nhà nước, và những cơ hội đặc biệt.
(5) Dây lưng (I Sa-mu-ên 18:4; Xuất Ê-díp-tô ký 28:4; Ê-sai 3:24).- Người Bédouins và các phẩm trật trong tôn giáo thắt cái dây lưng bằng da thường. Người ở thôn quê và thành thị thắt một dây lưng trông như cái đai dệt: cái đai nầy giống cái đai yên ngựa, hoặc cái đai rộng bằng lụa đẹp có dọc. Trong nếp gấp của cái đai rộng ấy, người ta có thể đựng tiền, bánh và các đồ vặt. Người ta có thói quen lót dây lưng chừng năm phân kể từ chỗ gài, và như vậy làm thành một cái túi sâu và chắc chắn. Ấy chính là cái "túi dây lưng" ở Ma-thi-ơ 10:9 (theo bản tiếng Anh). Các công dụng cốt yếu của dây lưng là: thắt áo dài lại và làm thành một cái túi ở trước ngực; khi người ta thắt lưng để làm việc, thì kéo tà áo phía trước, phía sau và hai bên mà giắt vào dây lưng; dây lưng cũng dùng làm túi tiền như mới nói trên đây, và dùng để cái bình mực của viên thư ký.
(6) Khăn trùm đầu.- Xuất Ê-díp-tô ký 28:40 và 39:28 dịch là "mũ"; Ða-ni-ên 3:21 dịch là "khăn" (turban - theo bản Revised Version, tiếng Anh). Dây lưng và khăn trùm đầu là hai thứ trang sức bậc nhứt trong cách ăn mặc ở phương Ðông. Cái khăn trùm đầu cốt dùng để che cho khỏi mặt trời, và làm cho bộ y phục được hoàn toàn, - "được vinh hiển và trang sức" (Xuất Ê-díp-tô ký 28:40; Ê-sai 61:10).
Ðể làm khăn trùm đầu, họ lấy một thước vuông vải bông hoặc lụa có tua, gập tréo lại, trùm lên đầu và vai. Người ta giữ khăn trùm đầu cho khỏi xổ ra bởi quấn nhiều vòng dây tết bằng lông chiên mềm mại, hoặc bởi một sợi dây nhỏ hơn cốt để trang điểm. Miếng vải của người Bédouins và khách bộ hành trùm đầu như thế thường là cái khăn mặt hoặc khăn mùi xoa có nói đến ở Lu-ca 19:20; Giăng 11:44; 20:7; Công vụ các sứ đồ 19:12. Trong các làng xóm thì miếng vải ấy gấp dài, quấn quanh cái mũ bằng vải bông hoặc vải lông chiên, làm thành cái khăn. Khi vào nhà, người phương Ðông không bỏ khăn ra, thì phải cẩn thận để nó ở một nơi hết sức cao, dường như cái khăn có ý làm tiêu biểu cho sự trung thành của họ đối với vua mình. Trên đầu mồ mả của người theo đạo Hồi có chạm trổ hình cái khăn bằng đá hoa.
(7) Giày, giép.- Giày, giép có liên lạc với sự thấp hèn (Thi Thiên 108:9 (?); Giô-suê 5:15; Lu-ca 9:5; Giăng 1:27). Khi đi đường, thỉnh thoảng người Sy-ri dừng lại để rũ bụi trong giày ra, hoặc bởi rút hẳn giày ra, hoặc bởi gõ vào một hòn đá, một bức tường, hoặc bởi để nó treo lơ lửng nơi ngón bàn chơn không đương khi rũ bụi ra. Nguyên hình giày là một cái đế có dây da dùng để buộc vào chơn, nhưng chẳng bao lâu người ta thấy rằng có một miếng da ở trên nữa thì tiện lợi hơn. Ngày nay ít người mang giép, trừ ra các thầy tu, những gã chăn chiên mang giày đơn sơ và thô kệch, có ghệt (guêtres) bọc kín bắp chơn, vì họ phải leo trèo dốc đá và nơi gai gốc. Trong các mồ mả của người Ai-cập và người Phê-rơ-sơ đều có để giày.
Lại có một thứ giày (guốc) rất thông dụng, làm bằng gỗ, có cái quai ở cổ chơn. Giày của cô dâu thì cao lắm và có tô điểm đặc biệt.
(8) Vải viền, tua, chéo áo.- Tua làm bằng những sợi chỉ lòng thòng, ta thường thấy đính vào trôn áo của người phương Ðông. Ấy cũng như là ở các tấm thảm, vì các sợi chỉ góp lại và tết thành tua. Những tua còn lại đến ngày nay và đáng chú ý hơn hết thì ta thấy ở tấm vải của người Do Thái dùng khi cầu nguyện: Ấy là tấm vải bông hoặc vải lông chiên trắng có những dọc đen để trùm đầu và mặt khi cầu nguyện, và gọi là tallith. Mấy cạnh tấm vải ấy có tua; mỗi góc lại có một tua lớn hơn đính vào một miếng lụa màu nhỏ và hình vuông; tua lớn nầy cũng phải sắp đặt thể nào cho nút và chỉ lên tới số tua 613, là giá trị và số đếm (valeur numérique) của chữ Hê-bơ-rơ có nghĩa là "tua". Theo sự cắt nghĩa của các thầy thông giáo, thì 613 là số của điều răn. Khi nhóm họp tại nhà hội, người ta thỉnh thoảng ngậm cái tua to đó để tỏ lòng vâng theo cả luật pháp (Mác 7:6).
(9) Y phục của phụ nữ.- Áo lót mình và áo ngắn của đờn bà giống như áo lót mình và áo ngắn của đờn ông; còn áo dài mặc ngoài hai áo kia thì giống như áo dài của đờn ông mặc khi có lễ. Các thứ áo nầy có nói đến ở II Sa-mu-ên 13:18; Ê-sai 3:22, 23; Nhã-ca 5:3. Y phục của đờn bà và đờn ông vẫn còn giống nhau như thế, duy có điều y phục của đờn bà thường là dài hơn y phục của đờn ông, ấy là lấy hình vóc làm tỷ lệ.
Khăn bịt đầu của đờn bà là những tấm vải to gấp lại, có khi bằng lụa sặc sỡ, nhưng thường là bằng vải bông (Ê-sai 3:23). Cách đây ít lâu phụ nữ ở núi Li-ban còn đeo mạng trùm đầu buông thõng xuống từ một cái sừng bằng bạc hoặc một cái ống thẳng đã buộc chặc vào đầu và mang cả ngày lẫn đêm. Cái sừng hoặc cái ống ấy cao chừng 30 phân tây. Vẻ đặc sắc hơn hết của y phục phụ nữ chính là các thứ mạng khác nhau. Ðờn bà theo đạo Hồi Hồi rất cẩn thận để che cả mặt không cho người ta thấy. Ðờn bà dân "Druze" để một con mắt không che; đờn bà Do Thái và đờn bà theo đạo Ðấng Christ thì chỉ trùm đầu và vai, còn mặt thì để hở. Mạng che mặt (lúp) làm bằng vải mỏng có hoa (Ê-sai 3:19); cũng có một thứ mạng viền đăng ten rộng hơn và đẹp hơn để trùm đầu và vai. Có lẽ cái lưới ở Ê-sai 3:18 chỉ về thứ mạng nầy. Ðờn bà đeo mạng nầy khi đi thăm viếng; lúc họ đến nơi, chủ nhà trước hết có bổn phận đi ra và cất cái mạng ấy hết sức mau chóng. Phụ nữ Bédouins cũng trùm đầu bằng cái mạng ấy, nhưng theo lối cổ cựu và dày dặn hơn. Chính là cái khăn quàng (châle) bằng vải dầy quấn quanh đầu, cổ và một phần lớn của mặt (Ê-sai 3:22; Ru-tơ 3:15). Cái khăn quàng lớn rộng hơn hết tiếng A-rạp gọi là izar, nó trùm cả thân thể. Cái khăn quàng đơn sơ hơn hết làm bằng vải trắng. Nhưng mạng thường làm bằng lụa quí và đẹp, do người bản xứ chế tạo. Có miếng vải vuông rộng gấp lại ở giửa, dùng dây buộc ngang lưng. Như vậy, phần dưới thành ra cái chéo áo, còn phần trên thì vắt lên vai và đầu, làm thành một cái mạng. Ðó là những khăn bịt đầu và màn che mặt mà Ê-sai 3:23 có nói đến; người đờn bà theo đạo Hồi quàng khăn nầy, thỉnh thoảng cũng có đờn bà khác quàng khi đi trong thành phố từ chỗ nầy đến chỗ kia.
(10) Thuốc vẽ mắt cũng hay dùng, tức là bột thanh mông thạch (antimoine), màu nâu đã luyện cho rắn lại. Bôi thuốc nầy vào mắt trẻ con, họ tưởng rằng sẽ giúp cho nó khỏe mạnh và che chở nó. Ðờn bà dùng thuốc vẽ mắt cốt để nhờ màu thẫm bóng làm cho con mắt có vẻ to hơn và thêm long lanh. Thuốc vẽ mắt đựng trong bình nhỏ đẹp, mỗi bình có một cái thoi buộc vào miệng bình, thoi ấy dùng để phết thuốc vào mi mắt. Một con gái của Gióp tên là Kê-ren-ha-búc, nghĩa là "cái sừng thuốc bôi mắt" (Gióp 43:14). Sự dủng thuốc vẽ mắt có nói đến ở II Các Vua 9:30; Giê-rê-mi 4:30; Khải huyền 3:18.
4. Gia đình.- Ở nước nào gia đình cũng có nơi gồm chứa mọi sự tốt lành, đẹp đẽ hơn hết của đời người. Ở xứ Sy-ri và xứ Pha-lê-tin không có nạn ma-men làm giảm bớt và hủy diệt các tình cảm thiên nhiên; và sự hi-sinh của cha mẹ nghèo khó hơn hết cũng vẫn vui thỏa và tận tụy như sự hi sinh của kẻ giàu có và sang trọng. Không có gì làm cho tâm trí người phương Ðông phải bối rối và tức bực cho bằng các tin tức của ty cảnh sát (thỉnh thoảng có dịch từ tiếng Anh để đăng vào các báo chí Á-rập) rằng cha mẹ từ bỏ con và bạc đãi con cái. Thỉnh thoảng có một đứa con nhỏ bị đặt lúc đêm khuya ở cửa một nhà Tân Ước hoặc một ký túc học hiệu (internat); nhưng nói cách chung, thì một đứa con sanh vào các gia đình nghèo khổ hơn hết cũng được hoan nghênh như một ơn của Ðức Chúa Trời ban cho. Trong chương sau chúng tôi sẽ luận về những vấn đề quan hệ với gia đình theo phương diện xã hội như tình hàng xóm, sự tiếp đãi khách, và sự kế tự. Ðây chúng tôi chỉ luận về ba việc cốt yếu của cuộc sinh hoạt trong gia đình, tức là sinh, giá thú và tử.
(1) Sinh.- Ðặc sắc cốt yếu của cuộc sinh họat trong gia đình phương Ðông là thích con trai hơn con gái. Ðó tự nhiên là kết quả của sự sinh hoạt xã hội hơn là của tình thương mến trong gia đình. Vì thiếu công pháp (droit public)và công lý (justice), nên gia đình thành ra một "tổ hợp" hoặc một "hiệp hội" của các quyền lợi chung,- chẳng những để vun trồng chơn lý, sự vâng phục và sự hi sinh đáng mến, nhưng cũng để cưới gã, kinh doanh và nhứt là để tiến bộ về phương diện xã hội. Khi con trai cưới vợ, thì thường đưa vợ về nhà cha mẹ, để ít ra cũng được mẹ chồng dạy bảo trong một thời kỳ. Con gái trở nên vật sở hữu của một gia đình khác, vật sở hữu mà họ đã mặc cả (trả giá) và mua được. Con gái ấy lần lần liên kết với các quyền lợi của gia đình kia. Nhưng cội gốc của nàng vẫn không bị quên bỏ, và nàng vẫn được che chở bởi ảnh hưởng của gia đình mình. Thường khi một người vợ đã bị đuổi bỏ vì cớ một sự khiêu khích tiểu nhân, thì lại được đối đãi một cách kính nể và khoan hồng, vì nếu sỉ nhục nàng thì sẽ khiến cho cả bà con, họ hàng của nàng giận ghét. Mọi người trong nhà hội hợp dưới quyền một kẻ chỉ huy đã được họ công nhận để cùng nhau đối phó với mọi sự bên ngoài, đó là một ý tưởng cốt yếu của đời sinh hoạt ở phương Ðông. Họ thường trưng dẫn một tục ngữ rằng: "Thà có một ngàn kẻ thù ở bên ngoài còn hơn có một kẻ thù ở trong nhà." Khi nào một người phương Ðông ngờ rằng mình đương bị lừa gạt, thì người có thể từ chối lời đề nghị dường như có hại cho quyền lợi của mình mà rằng: "Chào ông hàng xóm, ông ở sân của ông, còn tôi ở sân của tôi". Trong tiếng A-rạp cữ "gia quyến" có nghĩa là "những kẻ được chăm nom". Lại còn một tục ngữ nữa rằng: "Trong các việc xã hội, hãy cư xử như người bà con; trong các việc buôn bán, hãy làm người xa lạ". Khi người phương Ðông đi khỏi cửa mình hoặc khỏi khu các người ở liền ngay nhà mình, thì liền gặp những công chức đã trả tiền để được chức, những công chức mà người ấy không bầu cử lên và cũng không được kiểm soát cách hành động. Gia đình không phải là nơi luyện tập để gánh vác công việc cao quí cho quốc gia, nhưng là một thành lũy che chở mình khỏi sự bạo ngược của quốc gia. Mỗi một gia đình có thể lớn lên thành một tiểu đoàn thể, mà người đứng đầu có đủ tiền tài và thế lực để được nhà nước ban cho một chức trách, và bấy giờ người đứng đầu có thể giúp đỡ và bênh vực những kẻ đã thừa nhận mình làm lãnh tụ. Vì cớ phải tranh giành tài sản và chức tước ở đời, và vì cớ cần phải có kẻ kế tự để nối chức tước và dùng tài sản ấy, nên khi đẽ con trai thì gia đình vui sướng, còn đẽ con gái thì gia đình buồn rầu, thất vọng (Giê-rê-mi 20:15; Giăng 16:21). Khi gần sanh con, thường có hai hoặc ba nhạc công trong vùng đó đứng đợi ngoài cửa, chờ xem sanh con trai hay con gái. Nếu là con trai, họ lập tức đánh trống, đánh bất luận nhạc khí nào mà họ có, lại hát những bài ứng khẩu để chúc tụng sự cao sang của gia đình ấy và để nói tiên tri về sự nghiệp tương lai của con trai kế tự ấy. Khi họ nhờ vẻ lặng lẽ và buồn rầu của khách khứa mà biết rằng gia đình ấy đã sinh phải một con gái, thì các nhạc công lập tức vác trống lên vai mà ra đi. Lúc đó mà cử nhạc thì tức là chẳng ai thuê mà cũng đến sỉ vả. Bà ngoại thỉnh thoảng không chịu đi thăm một người mẹ đã làm cho gia quyến mình bị xấu hổ như thế. Khi lòng thương mến tự nhiên và quyền lợi về tài chánh xung đột nhau, thì quyền lợi về tài chánh thường được thắng. Nhưng mực của Ðức Chúa Trời chẳng phai màu, mặc dầu là mực viết trên tờ giấy tồi tệ như thế; vậy nên tuy rằng lúc đầu có sự thất vọng, nhưng chẳng bao lâu gia đình cũng nhận biết cô bé mới sinh ra có quyền được mình thương mến.
Gia đình phương Ðông là một nghiệp đoàn và là một đền thánh của lòng thương mến, ý tưởng ấy đã được bày tỏ trong quyển kinh Coran của đạo Hồi hồi, trong đó có chép rằng: "Của cải và con trai là thứ tô điểm cho đời sống." Cũng vậy, Thi Thiên 127 so sánh gia đình với cái túi đựng tên, và các con trai với các mũi tên sẳn sàng đem bắn. Ông nào có con trai thì được vì nể trong hội đồng của các trưởng lão họp ở cổng thành.
Ðứa trẻ mới sanh thì để hai cánh tay bên cạnh sườn, rồi bọc trong khăn (tã). Trong vòng dân quê ở một vài nơi vẫn còn cái tục xát muối vào mình đứa trẻ (Ê-xê-chi-ên 16:4); nhưng họ thường kiên tắm trước khi đứa trẻ đã được bốn mươi ngày. Cái hình người nho nhỏ bọc chặt trong các nếp vải bông, hai con mắt đen trô trố vì đã bôi thuốc vẽ mắt vào hai mí, trông giống như một cái xác ướp thuốc thơm (momie) hơn là một đứa trẻ sung sướng, và vì thế, thường khi khó tìm ra lời khen ngợi mà người mẹ đương mong được nghe.
Tên của con trẻ ở phương Ðông, theo như phong tục giản dị trong Kinh Thánh thường bày tỏ lòng của cha mẹ biết ơn Ðức Chúa Trời, hoặc một điều có quan hệ đến hình dáng của đứa trẻ, hoặc những trường hợp khi sinh ra nó. Thường hay đặt tên nó để kỷ niệm một người bà con nào đó. Vậy những tên ấy ghi riêng sự sung sướng và hi vọng của cha mẹ đứa trẻ. Tên của con trai Gia-cốp, và những tên như Y-sác, Ích-ma-ên, Môi-se, Y-ca-bốt, Sa-mu-ên, mà họ vẫn dùng, đủ làm chứng rõ cho thói tục kia. Thêm tên của cha vào như là một thứ biệt hiệu, tỉ như Ða-vít, con của Y-sai, Si-môn, con của Giô-na. Lấy tên của một người trong họ về thế hệ trước mà đặt cho con, ấy tức là có ý kỷ niệm một người đã vắng mặt và vì đó có thể bị quên lửng. Ðó dường như là ý nghĩa của câu hỏi nầy: "Những người vì kẻ chết chịu phép báp-tem sẽ làm chi ?" (I Cô-rinh-tô 15:29). Lấy tên của một người bà con có danh tiếng mà đặt cho con, ấy là hàm ý hứa và mong rằng đứa con ấy sẽ thừa hưởng cái tâm tánh của người đã khuất. Cứ theo ý nghĩa nầy, thì nhiều sự dạy dỗ của Giáo Hội kia về lễ báp-tem sẽ tan đi như bọt nước, và chỉ còn lại cái mục đích tối cao nhưng giản dị, là sống một cuộc đời giống như Ðấng Christ.
Cũng có những tên tỏ ra sự lo sợ và buồn thảm của gia đình. Tỉ như : Dibb (gấu), Nimr (beo), Saba (sư tử), dùng khi hết đứa con nầy đến đứa con khác đã qua đời lúc còn thơ ấu; họ mong rằng tên con thú dữ thường biết đó sẽ giang xa con mắt qủi dữ và làm cho hết tai nạn ấy. Có lẽ đó là sự bối rối khi Ca-lép (nghĩa là: chó) sinh ra. Những nhà kê cứu cổ tục của phương Ðông tìm được một ý nghĩa sâu xa hơn của các phong tục ấy; nhưng ngày nay phong tục ấy chỉ còn là một cách thấp hèn để cứu một gia đình thoát khỏi số phận hẩm hiu, và là một sự mê tín, mờ mịt nhìn nhận rằng cứ mỗi người mới ra đời thì lại phải có thêm một vị thần.
Con gái thường đặt tên theo những vật đẹp đẽ trong cõi thiên nhiên, hoặc theo những vẽ đẹp đáng yêu của tâm tính. Vậy, có những tên theo thiên văn: Shems (mặt trời), Kaukab và Nejmeh (ngôi sao), Kumr (mặt trăng). Hay có những tên đặt theo loài hoa, như Zambak (hoa huệ), Yasmin (hoa lài), và Wurdeh (hoa hồng). Các đồ trang sức tự nhiên hay được dùng để đặt tên con gái : Sổ nhà trường luôn luôn có những tên đẹp đẽ, như Sulu (ngọc), Almaz (kim cương), Zumurrud (bích ngọc). Cũng có nhiều tên do vẻ kiều diễm hoặc ý hướng tốt lành của những người mang tên đó. Tỉ như Selma (bình an), Simba (vui vẻ), Farideh (đặc biệt), Latifeh (nhơn ái), Sultaneh (công chúa), Jamileh (đẹp mắt).
Những thí dụ ở trong Kinh Thánh là : Giê-mi-ma (chim bồ câu - Gióp 42:14), Ta-bi-tha hoặc Ðô-ca (linh dương - Công vụ các sứ đồ 9:36), Rô-đơ (hoa hồng - Công vụ các sứ đồ 12:13), Ra-chên (chiên con), Sa-lô-mê (bình an - Mác 15:40), Ðê-bô-ra (con ong), Ê-sơ-tê (ngôi sao).
Có một tên buồn rầu kỳ cục là Kafah (đủ rồi), ngụ ý trách móc, có nghĩa là sau khi sanh nhiều con gái, cha mẹ sẽ cung kính ưa thích có rất ít là một đứa con trai.
Ở phương Ðông ta biết rất ít về cuộc đời của con trẻ, cuộc đời ấy ở phương Tây người ta biết rất cặn kẻ. Họ rất dung túng các thói quen xung đột của con trẻ, nhưng cha mẹ chẳng khi nào thử để cho con cái giao thông với mình; và cũng chẳng có nền văn chương cho con trẻ. Vậy nên trong truyện "Thiên phương dạ đàm" của người A-rạp thường không có nói một chút gì về khoảng giữa sự sanh ra và sự thành hôn. Con gái nhỏ rất thích chơi búp bê, nhưng tín đồ Hồi giáo, người Do Thái và Druze (một dân hơi giống dân Sa-ma-ri) cho thế là hơi pha màu thờ lạy hình tượng. Con trai thì chơi bi, đánh quay và đá bóng; khi vui chơi, con trai và con gái đều bắt chước các công việc đứng đắn mà người lớn hết sức chăm chú đến. Vậy nên có những lũ trẻ con họp thành đám cưới, cũng có đủ múa gươm, âm nhạc, và hoan hô. Chúng gỉa làm đám tang và cũng kêu la, than khóc giống như hệt. Cũng hay làm những trò người ăn cướp A-rạp xông đánh khách bộ hành, và những cảnh tòa án xét xử. Sự bán Giô-sép, sự đau khổ của Gióp và sự sống lại của La-xa-rơ, đều có diễn bằng thi ca, được nhiều người học thuộc lòng và lưu truyền hét đời nọ sang đời kia, cũng như các bài hát ru con của ta vậy. Thí dụ như bài thơ kể những nổi khổ sở của Gióp thì có nói thể nào vợ của Gióp đã cắt tóc của mình và của chồng, bán đi lấy tiền mua đồ ăn, và những sự thêm thắt như thế đã được coi là chính cốt truyện. Ta rất hiểu thể nào một thầy thông giáo chép một quyển trong Kinh Thánh có thể thêm một câu chú thích, phê bình do những sự truyền khẩu vô bằng như thế. Sự tham chiếu (références) sách Gia-sa có lẽ làm tỷ dụ cho sự chú thích, phê bình kia (Giô-suê 10:13; II Sa-mu-ên 1:18). Con trẻ đương đời Ðấng Christ chắc có chơi giả làm đám tang và đám cưới như bây giờ. Sự dân Do Thái không đáp lại tiếng kêu gọi của Ngài, và sự Ngài không thể chiều theo những điều mong mỏi của dân ấy, hai sự đó có thể so sánh với con trẻ chơi đùa trên khu họp chợ cho đến khi đã chán mỏi hoặc có những sự khác làm cho mê mải, chúng chẳng còn để ý đến âm nhạc của đám cưới hoặc tiếng than van của đám tang (Ma-thi-ơ 11:17). Trong vòng con gái của phương Ðông, lối chơi đùa phổ thông hơn hết lá gỉa làm cô dâu. Một đứa con gái được lựa chọn, bận y phục do những đứa kia cung cấp, rồi ngồi cúi mặt xuống, khoanh tay lại cho chúng ngắm nghía trầm trồ.
(2) Việc trọng yếu trong cuộc gia đình sinh hoạt ở phương Ðông là Hôn nhân. Cha mẹ thường hay tính việc hôn nhân cho con cái từ khi chúng còn thơ ấu. Có thi làm lễ đính hôn mấy năm trước khi làm lễ thành hôn. Vị hôn phu gởi một lể vật tặng thiếu nữ, và hai họ nhứt định lễ cưới (xem Sáng thế ký 34:12); sau đó ít lâu, nếu lời hứa bị bội, thì thiếu nữ (nếu nàng là người Do Thái) không thể kết duyên với một người nào khác trước khi được thầy thông giáo cấp cho một tờ giấy từ hôn.
Hôn nhân là một dịp yến tiệc lớn, có khi dây dưa nhiều ngày. Nếu quên không mời một người bà con, bạn hữu nào, thì là một sự xúc phạm nặng lắm. Có câu tục ngữ rằng: "Kẻ nào chẳng mời ta đến dự lễ cưới của hắn thì ta sẽ chẳng đi đưa đám xác hắn."
Các phong tục về hôn lễ ngày nay rất giống với các phong tục về hôn lễ có chép trong Kinh Thánh, song không phải đúng in như xưa. Người Do Thái đã nhập cảng các phong tục của Âu châu. Môn đồ Ðấng Christ thì theo các lề lối mới của Hội Thánh; còn người theo Hồi Giáo, là kẻ thường giữ hầu nết các thói tục cổ, thì lấy các lề lối mới đó làm đau lòng, vì cớ phụ nữ đáng lẽ phải cách biệt rất nghiêm ngặt.
Trong đám cưới của người Do Thái có cái đặc sắc đáng chú ý hơn hết, là cái tàn dưới đó cô dâu và chú rể ngồi hoặc đứng đang khi cử lễ. Tàn dựng ngoài sân hoặc trong phòng rộng, là nơi khách khứa nhóm họp; tàn làm bằng cành cây chà là và vải thêu. Cái tàn nầy trông từa tựa như cái vòng khung mà thỉnh thoảng ta thấy trên các toà giảng; cái tàn làm cho lễ cưới có vẻ như một lễ đăng quang.
Ê-sai 61:10 mô tả chàng rể trang sức như một thầy tế lễ. Trong lúc làm lễ cưới, chàng rể cũng vẫn mặc áo choàng cầu nguyện mà mình mặc khi nhóm họp thờ phượng Ðức Chúa Trời với hội chúng; áo choàng cầu nguyện ấy gọi là tallith. Người Do Thái nói rằng: "Chàng rể là một vua". Người chồng là thầy tế lễ và vua trong gia đình mình. Trong tất cả các nước mà người Do Thái tan lạc đến, và trong tất cả các thứ tiếng mà họ đã học để nói, thì cái tàn vẫn gọi theo tên Hê-bơ-rơ là Huppah. Thấy chàng rể ra khỏi cái tàn và tươi cười nhận những lời chúc mừng của bạn hữu, thì nảy ra ý so sánh với mặt trời mọc ở Thi Thiên 19:5. Trong đám cưới của người Do Thái có một việc có ý nghĩa buồn thảm, nhưng chẳng bao giờ người ta quên mất. Cái cốc đựng rượu dùng lễ cưới bị quăng xuống sàn nhà, vỡ làm những mảnh. Người ta cắt nghĩa rằng đó là cách kỷ niệm đền thờ bị tàn phá, cốt để dạy người Do Thái rằng khi mình được vui thỏa hơn hết, thì cũng chẳng nên quên những nỗi sầu thương thấm thía của tổ quốc. Ý tưởng đó nhắc ta nhớ lại Thi Thiên 137:6.
Xem thí dụ về mười người nữ đồng trinh (Ma-thi-ơ 25:1-13), người đọc Kinh Thánh tự nhiên muốn biết các nữ đồng trinh ở đâu khi họ ngủ quên, và chàng rể chậm trễ vì cớ nào và tại chốn nào.
Sự mô tả sau đây sẽ rọi một tia sáng trên các vấn đề khó giải ấy. Ðám cưới ở phương Ðông thường cử hành vào buổi tối. Trong vòng người Do Thái và theo đạo Ðấng Christ, lễ cưới thường cử hành ở nhà cha mẹ cô dâu, mặc dầu người theo đạo Ðấng Christ lại rất hay làm lễ cưới trong nhà thờ. Trong vòng người theo Hồi giáo, thì lễ cưới luôn luôn cử hành ở nhà chàng rể. Mọi người đều chú ý vào lúc chàng rể công nhiên đến nơi để tiếp rước cô dâu đã sửa soạn sẵn sàng và chờ đợi mình trong nhà, chung quanh có những thiếu nữ tùy tùng, tức là những cô phù dâu.
Nếu chúng ta kể đến một vài tiểu tiết đã thay đổi vì cớ người Hồi giáo có lệ phụ nữ phải cách biệt, thì các phong tục của Hồi giáo sẽ giúp chúng ta những hơn hết trong sự thử xem xét cho hiểu biết thể nào lễ cưới cử hành trong các thời kỳ của Kinh Thánh. Lúc ban ngày, cô dâu được dẫn đến nhà của chồng tương lai, tại đó có các cô phù dâu giúp mình mặc áo cưới và đeo nữ trang. Buổi tối, đám phụ nữ đã được mời bèn hội họp trong phòng tại đó cô dâu ngồi yên lặng; họ để thì giờ bình phẩm dáng vẻ của cô dâu, chúc mừng bà con họ hàng, tranh luận về những công việc trong gia đình, ăn kẹo, bánh và dùng các thứ giải khát.
Vì thì giờ qua chậm, họ hết vấn đề nói chuyện, và một vài người trong bọn mệt mỏi, ngủ gục. Chẳng còn phải làm gì nữa, mọi sự đã sẵn sàng để tiếp rước chàng rể; thình lình ở ngoài có tiếng kêu báo rằng chàng rể gần đến. Ban ngày chàng rể vắng mặt, đến ở nhà một người họ hàng. Sau khi mặt trời lặn một lúc, tức là vào khoảng bảy, tám giờ tối, thì các bạn trai của chàng rể nhóm họp trong nhà đó. Họ đã làm xong công việc trong ngày đó rồi. Họ vội vã ăn bữa tối, mặc quần áo, đến ở buổi tối với chàng rể, rồi đưa chàng rể về nhà. Trong thì giờ ấy họ ăn bánh, uống nước, nói chuyện phiếm, đọc những bài thơ chúc tụng hai họ và cả chàng rể nữa. Sau khi mọi người đã được nghinh tiếp rất lịch sự và sau khi nhận những lời chúc mừng của họ, thì vào khoảng mười một giờ khuya, chàng rể ngỏ ý muốn ra đi. Bấy giờ bèn có những người cầm cao các bó đuốc; mỗi một người khách đi ra khỏi cửa lại được họ đưa cho một cây nến thắp sáng; đám cưới đi thong thả đến nhà mà cô dâu và các cô phù dâu đương chờ đợi. Trong khi ấy một đám đông người họp trên các bao lơn, các bức tường của vườn và các mái nhà bằng phẳng ở hai bên đường. Thật là một cảnh tượng dễ cảm khi ta đứng xem đám rước sáng lạng ấy đi qua dưới khung trời đầy sao một đêm lặng lẽ ở phương Ðông. Ánh sáng của đuốc và nến chẳng những làm cho đám cưới trông như một hàng ánh sáng dài, ngòng ngoèo và cử động được, nhưng lại làm nổi bật những áo trắng và mặt mày của những kẻ đứng xem in vào những bức tường sẫm và khung trời đen. Chàng rể được người ta chú ý hơn hết. Ta nghe họ nói thì thầm rằng: "Chàng rể kia kìa! Chàng rể kia kìa!" Thỉnh thoảng những người đàn bà lại cất tiếng kêu lên một cách riêng để tỏ sự vui mừng khi có lễ cưới trong những dịp lễ vui mừng của gia đình và quốc gia. Tiếng kêu ấy nghe rất xa, và được hòa theo bởi những tiếng khác ở đằng trước đám cưới, và như vậy, người ta biết đám cưới đến gần từ nửa giờ hoặc hơn nữa giờ trước. Ấy là trong khoảng thì giờ ấy mà mấy nữ đồng trinh dại vội vã đi ra để kiếm dầu thắp đèn mình. Dọc đường đám người xem càng đông hơn, và bắt đầu cùng đi với những người trong đám cưới cầm đuốc và nến. Càng đến gần nhà, thì lại càng nôn nao, chàng rể cũng đi mau hơn, người ta reo hò lớn tiếng hơn và mau mắn hơn rằng: "Chàng rể đã đến! Chàng rể đã đến!"
Trước khi chàng rể đến nơi; các thiếu nữ đương chờ đợi bèn cầm đèn và nến đi ra một quãng đường để soi sáng lối vào và để tỏ ý tôn kính chàng rể cùng đám bà con, thiết hữu chung quanh chàng rể. Tất cả mọi người vào dự tiệc cưới rất là vui vẻ. Còn những kẻ đã làm xong cái phận sự đi kèm chàng rể, thì lập tức giải tán; rồi cửa đóng lại.
Ấy đấy, cái việc giãn dị xảy ra trong gia đình hạ giới mà có nhiều chỗ giống lạ lùng với sinh hoạt nơi thiên thượng. Ðám cưới được dẫn vào nhà. Thí dụ, và tại đó được mặc áo đẹp đẽ của chân lý thiêng liêng. Nếu chúng ta cẩn thận theo việc hôn nhânở dưới đất mà giải thích việc thiêng liêng ở trên trời thỉ sẽ học biết những điều nầy:
(1) Sự trang điểm của cô dâu dạy ta rằng Hội Thánh, là Tân Phụ của Ðấng Christ, cần phải khéo dọn mình để "mặc lấy các ân tứ của Tân Lang một cách xứng đáng;"
(2) Ðám cưới sáng láng và tiến lên dạy ta rằng mỗi tôi tớ của Ðấng Christ phải là một kẻ "mang ánh sáng" và không bao giờ được đứng yên một chỗ;
(3) Sự mọi mắt quay xem chàng rể dạy ta rằng tội lỗi sẽ lớn nặng dường nào khi có một chức viên trong Hội Thánh hoặc một lẽ tin kính làm xê xích hoặc mờ ám Thân vị tối cao đáng phải làm trung tâm điểm cho mọi sự, tức là Ðức Chúa Jêsus Christ.
3. Tang lễ.- Khi nào trong một gia đình ở phương Ðông có người chết, thì liền có tiếng khóc lóc than vãn vang lên báo tin buồn cho những kẻ ở chung quanh. Theo phong tục, thì trong lúc buồn thảm như thế, những người thân thuộc bứt tóc, xé áo, đấm ngực và kêu khóc lớn tiếng cho đến khi thân thể kiệt sức, sanh ra rầu rĩ, sầu não, chán nản. Không ai trổi hơn người phương Ðông trong sự chịu nhận ý chỉ của Ðức Chúa Trời một cách bình tỉnh, chẳng chút lằm bằm; nhưng để tỏ cho mọi người biết rằng họ đau đớn vì mất người thân yêu, thì chính sự tỏ lòng sầu thương đã trở nên gánh sầu thương nặng nề hơn hết. Sự than khóc rên rĩ khi có người chết và sự rên siếc nức nở chung quanh thi hài trong khoảng thì giờ ngắn ngủi trước khi hạ huyệt, đều có nói đến ở Sáng thế ký 23:4; Mác 5:38; Giăng 11:31; và Công vụ các sứ đồ 9:39. Những nước mắt của Ðấng Christ đổ ra nơi mộ La-xa-rơ thật là một sự yên ủi cho nhiều gia đình bị tối tăm, khiến lòng người cảm biết và kể lể nỗi đắng cay của mình, mặc dầu đức tin trong Ðức Chúa Trời vẫn còn chắc chắn và mạnh mẽ. Một vài lời của người phương Ðông thường thốt ra khi than khóc, rên siếc, thì có chép ở Giê-rê-mi 22:18. Thân thuộc than khóc, nghiêng trên cái hình hài lạnh gía của người mới đây còn săn sác đến những công việc nhỏ nhặt hơn hết trong gia đình, còn là chuẩn đích cốt yếu của chức vụ gia đình; họ dùng những tiếng âu yếm, yêu đương mà nài xin một câu đáp lại từ môi miệng chẳng bao giờ mấp máy nữa và từ khuôn mặt chẳng còn tỏ dấu hiệu gì. Tên của những người ở trong gia tộc đã chết từ trước cũng được nhắc đến và làm cho nước mắt lại tuôn tràn. Những người đờn bà làm nghề khóc mướn thật khéo thêu dệt tình thân thuộc và ứng khẩu đặt ra những bài thơ ca tụng kẻ qua đời. Khi có một bọn người từ làng xóm tiếp cận đến khóc, họ thường giơ tay lên trời mà kêu rằng: "Mất hi vọng rồi!" (Gióp 8:13; Ê-sai 57:10; Ê-xê-chi-ên 37:11). Khi có một người tr3 tuổi chưa có cưới vợ lấy chồng mà đã vội qua đời, thì đám tang và sự than khóc lại càng làm ra cảm động hơn bởi trước hết làm theo một vài lễ nghi của hôn nhân. Như vậy, các lễ nghi nầy trái hẳn với các lễ nghi của một đám cưới thật. Vậy nên con gái của Giép-thê than khóc sự đồng trinh của mình trước số phận đương đợi chờ mình (Các quan xét 11:37).
Vì ở phương Ðông khí hậu nóng nực, nên khoảng thì giờ giữa sự chết và sự chôn rất là ngắn ngủi, thường chết ngày nào thì chôn ngày ấy, hoặc để đến hôm sau là cùng. Sự điên cuồn bề ngoài hơi làm sai ý nghĩa của sự buồn thảm thành thực ở trong nhà tang, thì trên đường đưa xác đến mồ mả lại thường đổi thành sự ích kỷ pha màu mộ đạo. Trong vòng những người phương Ðông đã theo mới, thì khi đi đưa đám tang họ gọi là "sự làm lành", một việc họ tưởng sẽ khiến mình được Ðức Chúa Trời ban thưởng.
Người Do Thái gọi nghĩa địa một cách trọng thể là "nơi ở đời đời" (Truyền đạo 12:5); thỉnh thoảng cũng gọi là "nơi ở của kẻ sống".