Lời Kinh Thánh

Hãy tin Đức Chúa Jesus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. Kinh Thánh - Công Vụ Các Sứ đồ 16: 31

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Đức Chúa Trời ở Việt Nam - 2


                                                                                                                          Pastor Peter Le Van

5.  Chuyến đi Bảo Lộc (Thị trấn B’lao)

         Tháng 3- 1984 tôi cầu nguyện xin Chúa cho tôi đi Bảo Lộc để tìm một công việc sinh sống, “Lạy Chúa, xin Ngài thương xót gia đình chúng con.  Đã từ lâu con không có cơ hội đi xa vì hoàn cảnh con Chúa biết rõ.  Con muốn đi vào B’lao thăm người bạn thân, và tìm kiếm một việc làm.  Ở đây, con thất nghiệp buồn lắm Chúa ôi! Xin Ngài cho con một dấu hiệu rõ ràng nếu Ngài bằng lòng cho con đi. Con cảm ơn Ngài!”
Thế rồi, khoảng một tuần sau tôi nhận được thư của người bạn mà tôi dự định đi thăm.  Đài và tôi đã sống cách xa nhau hơn tám năm.  Hôm nay, đột ngột lại viết thư về cho tôi.  Thật lạ lùng và thú vị! Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần cho Phượng nghe. Trong thư Đài bảo tôi vào thăm chơi và nghiên cứu công việc sinh sống.  Cậu ta cho biết cuộc sống của cậu đã ổn định và muốn tôi vào để được sống gần nhau.  Chúng tôi là đôi bạn thân thiết thuở còn trung học tại quê nhà, rồi tiếp tục cùng trọ chung nhà với nhau trong những năm tháng ở đại học Sài Gòn. 

Vậy là tôi có dấu hiệu của Chúa bằng lòng cho đi, nhưng tiền để đi chưa có.  Tôi lại tiếp tục cầu xin Chúa.  Thật lạ lùng mấy hôm sau, bà ngoại của cháu đem lên cho số tiền vừa đủ mua vé xe đò.  Từ Đà Nẵng đến Nha Trang đoạn đường dài khoảng 500 cây số.  Rồi từ đó phải sang xe đi Bảo Lộc hãy còn xa lắm!  Cho nên, tôi cầu xin Chúa cho tôi mua được cái vé tốt nhất, nghĩa là được ngồi cạnh tài xế hay ít ra những ghế ở băng đầu.  Thế nhưng, cầm cái vé trên tay tôi tuyệt vọng vì đó là cái vé ngồi ở băng sau chót. Trên đường về nhà tôi tự nhủ, “Uả, sao mình đã cầu nguyện rồi mà Chúa lại cho cái vé hạt bét này?” Tôi buồn lắm, nhưng không dám nói với nhà tôi.

        Sáng hôm sau, khi lên bến xe và bước lên chỗ ngồi của mình, tôi mới biết rằng chẳng có ai mua vé ở hàng ghế đó.  Vì vậy tôi có quyền nằm xuống thoải mái, vắt chân,rung đùi và mỉm cười…  Bây giờ, tôi mới khám phá được điều kỳ diệu: Đức Chúa Trời biết hết mọi sự. Ngài chăm lo từng việc nhỏ nhặt một cách chu đáo hơn những gì tôi mong đợi.

        Đến Bảo Lộc trời đã tối, tôi không biết tìm điạ chỉ của bạn mình ở đâu.  Trong thư bạn tôi dặn dò:

- Xuống xe xong, mày hỏi nhà Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ tên là Vân bán mỹ phẩm ở chợ Bảo Lộc, người ta sẽ chỉ cho.

Thế nhưng, trời đã tối, phòng giáo dục đã đóng cửa, chợ cũng đã tan!  Thời tiết cao nguyên lạnh lắm về đêm.  Mưa rả rích làm cho bộ áo quần ẩm ướt.  Bụng cồn cào vì đói. Người tôi mệt nhoài sau hai ngày đường vất vả.  Thẫn thờ trong một lúc, tôi chẳng biết tính làm sao.  Nhớ đến Chúa, tôi bèn nhắm mắt lại để cầu xin, “Lạy Chúa, xin Ngài chỉ đường cho con.  Con thèm một bữa cơm tối, một giấc ngủ thật ngon.” Tôi lại tiếp tục bách bộ và rẽ vào một con đường đất đỏ khá rộng.  Đến cuối đường, tôi dừng lại hỏi thăm một người đàn bà:

 Thưa bác, bác có biết nhà anh Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ là cô Vân bán mỹ phẩm không ạ?

 Ngay cái cổng cậu đứng đấy!  Người đàn bà nhã nhặn trả lời.  Bà gọi giúp:

- Cậu Đài ơi!  Có ai hỏi thăm này.  Bà nhìn tôi một lần nữa mìm cười phúc hậu.  Tôi cảm ơn bà rồi bước vào cổng ngõ.

Đài luýnh quýnh chạy ra ôm lấy tôi, miệng bi bô:

-  Thằng bạn tội nghiệp của tôi ôi! Ứớt hết rồi!  Làm sao mày tìm ra nhà giỏi vậy?
Tôi thong thả kể cho Đài nghe về những điều lạ lùng mà Chúa đã ban cho.  Hai chúng tôi gặp lại nhau sau trong niềm sung sướng. Đêm ấy, chúng tôi kể cho nhau nghe những biến cố xảy ra từ những ngày sau 1975 với bao nhiêu thay đổi.  Chúng tôi ôn lại quá khứ, điểm lại trong số bạn bè đứa nào còn đứa nào mất, hay lưu lạc phương trời nào?

Thời tiết cao nguyên thật tuyệt.  Cái lạnh dễ thương và chúng tôi ngủ lúc nào không biết.

Chơi với Đài khoảng mười ngày, tôi lại muốn trở về Đà Nẵng.  Tôi cảm thấy vui mừng và biết ơn Chúa vì được gặp lại bạn mình sau những nhớ nhung và mong đợi.  Còn công việc làm ăn thì không dễ dàng kiếm một việc thích hợp.  Vả lại, cuộc sống anh em chúng tôi bây giờ đã đổi khác.  Đứa nào cũng đã có cái tổ ấm của riêng mình. Dầu thương mến nhau nhưng xung quanh còn bao nhiêu bổn phận.  Sự hồn nhiên, vô tư đã thuộc về quá khứ của những ngày cắp sách.  Tôi không muốn làm nhọc bạn, nên quyết định trở về Đà Nẵng.

        Chuyến xe sáng rời bến khi trời B’lao còn đầy sương.  Đài và tôi ôm nhau thêm một lần nữa.  Đài cho tôi chiếc áo lạnh da màu vàng.  Tôi cho Đài cái mũ lưỡi trai để nhớ tưởng đến nhau. Xe chạy một quãng, Đài vẫn còn đứng đó nhìn theo.

        Trên đường về, tôi mãi mê nhìn ngắm những đồi chè trải dài như con sông uốn khúc một màu xanh bất tận.  Những người phụ nữ da sậm đen với cái gùi đằng sau lưng và đứa con nhỏ trước bụng.  Cuộc đời của họ có lẽ là một tương lai mịt mùng vô vọng. Họ gùi củi gạo, mắm muối, dầu chè và cất giấu nỗi niềm riêng.  Đôi mắt họ sâu hoắm có vẻ mệt mỏi; lê những bước chân nặng nề trên con đường bụi đỏ.   Tôi thầm tạ ơn Chúa vì tôi đã bắt đầu có sự bình yên trong lòng và tin rằng Đức Giê-hô-va đang bước đi cùng mình. Tôi cũng thầm cầu nguyện cho những người phụ nữ đáng thương kia một ngày được gặp Chúa, để nhận được sự cứu rỗi và yêu thương.  Những cái gùi trĩu nặng ấy Chúa sẽ gánh thay cho.

“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.  Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ.  Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.”
                                       (Mathiơ 11: 28-30)

6. Cám Dỗ

“Kẻ nào phạm tội ngoại tình với người đàn bà, tất vô tâm vô trí: Ai làm như vậy khiến cho lình hồn mình hư mất.  Người ấy sẽ bị thương tích và khinh bỉ, sự sỉ nhục người ấy chẳng bôi mất đi.”
                             (Châm ngôn 6: 32, 33)

        Vốn là học trò ban văn chương trước 1975, nên tôi có niềm say mê với văn học nghệ thuật.  Cho nên một tối nọ cố chen mua cho được một cái vé để xem kịch Lưu Quang Vũ. Đêm ấy, đoàn kịch Hà Nội diễn vở Hoàng Tử Pơ-rim và nàng Si-ta.  Những bi thương và kịch tính của sân khấu làm cảm động lòng người. Những oan trái khổ đau của một kiếp người bị ruồng rẫy, sống trong tủi hận bị ức hiếp bởi kẻ cai trị ngu dốt, bù nhìn và, cuối cùng người phụ nữ kia đi tìm cái chết.       Vở kịch ẩn chứa nỗi thống khổ của con người sống giữa cái xã hội đầy bất công, những oan khiên chống chất cho đến nỗi loài khỉ không muốn làm người.

        Ánh đèn mờ chập chùng trong tiếng nhạc du dương và ai oán, đã đưa tôi vào một thế giới khác; thoát ly khỏi thực tại và thả hồn bay theo ảo mộng.  Tôi cố xô đuổi hình ảnh của nàng Si-ta ra khỏi trí óc của mình.  Nhưng với bản ngã yếu đuối, tôi không thể nào kềm chế nổi sự cám dỗ chết người trước những rung động.  Con người cũ trong tôi bỗng sống dậy mãnh liệt.  Thế rồi, tôi bắt đầu rong ruỗi chạy theo những điều lòng mình ưa muốn; gạt bỏ qua một bên những lời khuyên dạy của Đức Chúa Trời.  Cái mặc cảm tội lỗi vì không nghe tiếng Chúa đã khiến tôi xa cách Ngài, không dám đối mặt trong sự cầu nguyện.  Tôi như con chim đau đớn vì thương tích từ những mũi tên của loài qủy dữ.  Nhưng có một điều thật lạ lùng đó là tình yêu của Cứu Chúa Jêsus.  Ngài đã đổ huyết vô tội của mình để cứu lấy những đứa con tội lỗi. Cho nên Ngài vẫn cứ xót thương cho dù tôi chẳng xứng đáng gì với ân điển cao vời đó.  Ngài đã đánh thức tôi dậy sau giấc ngủ bất an đầy rối loạn!

       Tôi trở về nhà vào một đêm rất khuya, say khướt.  Nhà đóng cổng, tôi trèo rào bước vô.  Nhìn trên bàn, mâm cơm vẫn còn nguyên vẹn.  Hai cái chén cùng với đĩa rau muống luộc, một quả trứng gà cạnh chén nước mắm.  Nhà tôi đã ngủ say, tay gát trên trán.   Con tôi, hai đứa bình yên trong lòng mẹ.   Nhìn cái hình ảnh đáng yêu ấy làm cho lòng tôi xúc động.  Một sự ăn ăn trào lên và tôi vội qùy xuống xưng tội cùng Chúa.  Sáng hôm sau, tôi đến nhà thờ lúc năm giờ để cầu xin với Chúa; hứa từ bỏ những tháng ngày lung lạc và quyết tâm sống theo những lời khuyên dạy của Ngài.

        Trước ngày rời Việt Nam, một người anh trong Chúa có tặng tôi bài thơ mà anh ấy nói rằng tác giả là một người Y-pha-nho.  Bài thơ dài được dịch sang tiếng Việt, trong đó có đoạn:

Nếu trước kia trên nẻo đường phiêu đãng

Ai hỏi tôi sẽ dừng lại nơi đâu?

Tôi trả lời ngay, chuyện đó còn lâu

Vì đường giang hồ đưa về vô tận

Bãi vi lau hay những bờ cát trắng

Chỉ là nơi thuyền tạm ghé mà thôi

Vầng trăng khuya không buộc chặt hồn tôi

Tình du tử cắt rời niềm lưu luyến…

Tôi ra đi thầm lặng và đơn côi

Mái tóc đẹp nhòa dần theo kỷ niệm

Những cặp mắt ngỡ ngàng nơi góc biển

Những bàn tay trắng mịn cuối chân trời

Khi hoàng hôn vừa cạn chén ly bôi

Lời âu yếm khác chi lời gió thoảng

Tình thắm đẹp khi rơi vào quên lãng

Thì hương thơm mang sẵn vị chua cay

Người giang hồ là hình ảnh mây bay

Phiêu du mãi trên nền trời bát ngát

Đôi khi tươi xanh và trong mát

Đôi khi bão táp buồn âm u

Mùa đông về lạnh lão tiếp sầu thu

Mùa hạ ấm sau mùa xuân rộn rã

Mây vẫn bay qua miền quen hay xứ lạ

Trong ngày quang hay những tối không trăng

Là giang hồ ôm giấc mộng vây quanh

Có ai nói sẽ dừng chân lữ thứ


Nhưng thuở ấy nay trở thành quá khứ

Mỏi giang hồ tôi dừng lại nơi đây

Bài thơ dài cắt đứt những câu say

Để viết tiếp bằng những câu thành thật

Đời mưa gió lạnh vai ướt ngực

Tình ngã nghiêng đôi mắt nhức đau thương

Mối tình sầu đem gửi gió mười phương

Trả sương lạnh cho ánh đèn hải cảng

Có những lúc gục đầu trong đêm tửu quán

Có những giờ say chén rượu cháy vành môi

Trả tôi về những ngày cũ đơn côi

Tôi đành sống êm hòa và thuận phục

Giản dị lắm tôi trở về hạnh phúc

Của người chồng biết yêu vợ thương con

Con của tôi cặp mắt to tròn

Cười nũng nịu niềm vui hồn hậu quá

Vợ của tôi như hạt sương trong nếp lá

Đẹp long lanh mỗi lúc ngước nhìn tôi

Hạnh phúc bình thường nhưng rất xinh tươi

Tôi đón nhận với tình yêu đơn giản

Nhưng có lúc vì quá ư phẳng lặng

Tôi chợt thương chợt nhớ thuở xưa kia…


Tình thuở ấy giờ đây thôi đã hết

Nên buồn thương đôi lúc đến trong mơ

Nhưng chỉ thóang qua nhè nhẹ hững hờ

Như nét vẽ như vần thơ rất mỏng

Khi con tôi đưa bàn tay bé bỏng

Sẽ hỏi tôi và gọi khẽ, “ba ơi”

Thì mùa xuân lại đến với làn môi

Tóc lại đẹp với bình minh tươi trẻ

Tiếng chim ca lại bừng lên vui vẻ

Gió trên cành rạo rực bướm tình si

Khi vợ tôi với sắc đẹp nhu mì

Cười âu yếm hỏi anh, “sao chưa ngủ?”

Thì mùa xuân tan dần trong sương phủ

Trời thương yêu tinh tú sáng long lanh

Tôi bảo nàng hãy cầm lấy tay anh

Cho hạnh phúc đượm thêm màu ân ái…

       Cảm tạ Đức Chúa Trời đã cho tôi cắt đứt với quá khứ của một thanh niên lãng tử, bằng lòng sống thuận phục trong tình yêu mà Ngài đã ban tặng.  Không có gì qúy hơn được sống bên những người thân thích và ruột thịt của mình.  Trong kinh nghiệm này, bài học từ sách Châm Ngôn vô cùng ý nghĩa và thâm thuý đối với tôi:

“Hãy uống nước hồ con chứa, và nước chảy trong giếng con...
Các nguồn của nó há tràn ra ngoài đường, và các suối của con tuôn nơi phố chợ…Con hãy lấy làm vui thích nơi vợ con cưới buổi đang-thi
Như nai cái đáng thương và hoàng dương có duyên tốt.
Nguyện nương-long nàng làm thỏa lòng con luôn luôn
Và ái tình nàng khiến con say mê mãi mãi.”
                         (Châm ngôn 5: 15-19)

“Kẻ nào phạm tội ngoại tình với người đàn bà, tất vô tâm vô trí: Ai làm như vậy khiến cho lình hồn mình hư mất.  Người ấy sẽ bị thương tích và khinh bỉ, sự sỉ nhục người ấy chẳng bôi mất đi.”

                           (Châm ngôn 6: 32, 33)

7. Quyền năng của sự chữa lành

       Tháng 9- 1987

      Trong căn nhà mới của chúng tôi mà Chúa vừa cho mua được, nằm sâu trong con hẻm của khu chợ Mới bùn lầy tanh tưởi.   Tôi nằm trên giường đã hơn ba ngày rên rỉ vì đau đớn. Một tai nạn đã xảy ra trên đường đến nhà thờ vào một sáng Chúa nhật.  Xe Hon-da của tôi bị ngã xuống vì một chiếc xe xích lô húc vào.  Vợ con tôi cùng ngã xuống đất nhưng bình yên.  Chỉ riêng tôi không đứng dậy được.

       Theo lời người thầy thuốc chuyên khoa bảo rằng lớp mỡ bên hông bị giãn ra, và vài đốt xương bị thương tổn.  Tôi đã đến một lương y gia truyền để mua thuốc của ông thầy Vàng về uống và xoa bóp, nhưng vẫn không khỏi.  Thế rồi, tôi vẫn nằm bất động trên giường thở than cùng Chúa; kiểm điểm lại cuộc sống của bản thân mình tìm xem những điều gì chưa đẹp lòng Ngài.

       Rồi một ngày nọ, có ba người phụ nữ đến thăm.  Hai bà là vợ của Mục sư Mã Phúc Minh, Mục sư Nguyễn Tợi cùng Bác Việt Hương.  Đến giờ cơm trưa, gia đình chúng tôi mời qúy bà ở lại dùng bữa.  Trước khi ăn, qúy bà cùng cầu nguyện cho tôi.  Bác Việt Hương cầu xin với Chúa giọng thiết tha và ngọt ngào:

“Lạy Chúa là Cha của chúng con.  Xin Cha thương xót thầy Thể.  Cảm ơn Cha vì điều đó đã xảy ra để làm vinh hiển danh Cha.  Con tin rằng giờ này đây Chúa sẽ chữa lành cho thầy. “Mọi việc hiệp lại lám ích cho công việc của Đức Chúa Trời.” Thầy Thể có vấp phạm điều gì xin Cha tha thứ và chữa lành cho…”

       Lời cầu nguyện vừa chấm dứt, một phép lạ cũng vừa xảy ra.   Như có tia điện chạy vào tòan thân chạm mạnh vào chỗ đau; làm tan biến sự nhức nhối trong khoảnh khắc.  Tôi nghe như có bàn tay êm dịu đỡ tôi ngồi dậy.  Tôi vui mừng trong nỗi ngạc nhiên và sợ hãi.  Tôi thử bước chân xuống đất, rồi đi qua đi lại, nhảy lên.  Ồ lạ lung!  Tôi hoàn toàn bình thường vì Chúa đã chữa lành vết thương.  Mọi người trố mắt nhìn tôi không ngớt lời cảm tạ ngợi khen Chúa.  Ngay sau giờ phút đó, cái bàn thờ ông bà trên gác lửng của ba mẹ tôi được dọn dẹp.  Chúa nhật của tuần lễ đó, cà gia đình tôi đến nhà thờ tiếp nhận Chúa Jê-sus.

       Từ biến cố được chữa lành, trong đời sống tôi có rất nhiều thay đổi.  Tôi gần gũi Chúa hơn.  Những thắc mắc, hồ nghi về những câu chuyện trong Kinh Thánh dần dần biến mất.   Tôi hoàn toàn tin vào quyền năng của Chúa.  Tôi nhớ lại nhiều phép lạ chữa lành được chép trong các sách Phúc Âm và gần nhất là quyển sách “Thượng Đế Còn Làm Phép Lạ” của bà Kathryn Kuhlman; và tin rằng Chúa Jê-sus hôm qua ngày nay và mãi mãi không bao giờ thay đổi.

       Cũng từ đó được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều tôi tớ Chúa; tôi tập tễnh đi nhiều nơi để làm chứng nhân cho Đức Chúa Trời.

    “Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, bởi sự sửa phạt người chịu, chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.”
                                      (Ê-sai 53: 5)

      8. Chúa Mở Đường

        Trên đường từ nhà thờ Quế Sơn trở về Đà Nẵng, lòng tôi buồn man mác không hiểu tại sao Chúa vẫn để chúng tôi còn nhiều lận đận về cơm áo?  Tôi vẫn phải những công việc mà tôi không ưa thích.   Tôi làm nghề chụp ảnh công viên với những tháng năm buồn tủi.   Rồi tham gia vào những chuyện làm ăn mua bán phiêu lưu.   Tôi rất ngại tiếp xúc những con người mánh mung gian trá.   

        Khi xã hội nghèo đói, thì việc ưu tiên của con người là lao vào việc mưu sinh. Khi cái bao tử được đặt lên hàng đầu, thì những giá trị cao quý của đời sống tinh thần bị hạ bệ.  Nhiều người đã quên đi nhân nghĩa, sẵn sàng quay lưng lại với đạo lý làm người, chà đạp lên nhau để sống.  Trong bối cảnh khốn cùng của xã hội, giành giật của sự mưu sinh, nhân cách của con người được thể hiện rõ rệt.  Sự dối trá, lừa đảo, vong ân, bội nghĩa… dường như là chuyện quá quen thuộc với nhiều người; nhưng lại là nỗi ưu tư trăn trở đối với một số người còn chút lương tâm và liêm sỉ.

       Khi đức tin lớn dần như đứa trẻ vừa nhận biết điều phải trái, tôi rất sợ những việc làm không vui lòng Chúa.  Cho nên tôi kêu cầu cùng Ngài mở đường cho tôi một công việc làm  phù hợp với năng khiếu của mình; nhưng đẹp lòng Chúa.  Ngày tháng vẫn cứ trôi qua trong nỗi khắc khoải đợi chờ…

        Gia đình tôi đông người, tám nhân khẩu.  Cha mẹ già yếu, công việc làm ăn của tôi thất thường và lây lất.  Vợ tôi ngoài việc đi dạy ở trường, về nhà còn phải tất bật với cái quày buôn bán nước mắm.  Mỗi sáng lúc năm giờ, tôi và đứa con gái đầu năm tuổi, hai cha con đèo nhau trên xe đạp ra chợ Cồn mua các loại trái cây như cốc, ổi, mía, xoài về bán thêm cho trẻ con trong xóm.  Bé Hạnh đi với tôi cho có bạn và trông coi xe đạp.   Có lần nó thèm ăn chôm chôm mà tôi không đủ tiền nên dạy cho nó bài hát, “Muốn chôm chôm mà không có tiền, không có tiền thì không có chôm chôm.” Nó nhanh nhẹn hát theo và trả lời: “Thế thì ba mua cho con củ khoai cũng được.”  Tôi ngồi xuống ôm con gái vào lòng; xoa trên cái đầu bé bỏng của nó.  Những giọt nước mắt âm thầm chảy xuống.  Tình cảnh của chúng tôi bây giờ sống thật đơn sơ và nghèo khó.  Mỗi tháng chỉ mong có được đủ củi đun bếp và gạo đầy thùng thì đã yên lòng.

       Như bao nhiêu gia đình khác, chúng tôi cùng chung hoàn cảnh sau những đổi thay của đất nước.  Mỗi người quần quật làm việc ngày đêm mà vẫn không đủ sống. Chính vì những khó khăn cực kỳ vây hãm, khiến cho con cái của Chúa lắm khi cũng hành động theo ý riêng của mình.  Không còn đợi chờ Chúa nữa, tôi quyết định “tự mở đường!” Aó quần đã bỏ vào chiếc xách tay, chuẩn bị về quê để tham gia vào giới buôn trầm.
       Đang ngồi ăn sáng, bỗng chiếc xe Hon-da đỗ xịch trước nhà.  Một người đàn ông chậm rãi bước vào.  Tôi nhận ra đó là một giáo sư ngoại ngữ, đến mời tôi hợp tác dạy tiếng Anh. Tôi nhận lời mà không cần suy nghĩ.  Chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã thương xót, không muốn tôi dính líu vào những chuyện làm ăn phiêu lưu và liều lĩnh!

       Lòng tôi hoan hỉ được trở về với cái nghề yêu thích.  Tôi say mê trong những giờ lên lớp.  Tháng ngày qua đi êm đẹp trong niềm vui rộn ràng của một nhà giáo. Tôi luôn cầu nguyện biết ơn Chúa trước những giờ lên bục.  Học viên tôi già trẻ, lớn bé nhiều hạng tuổi khác nhau, xuất thân đủ mọi thành phần.  Nhưng giữa họ và tôi không hề có khoản cách; bởi vì trong tôi được mặc lấy một thứ tình yêu mới mà người thế gian không thể có.


Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện của kẻ khốn cùng
“Chẳng khinh dễ lời câu xin của họ.”  
               (Thi Thiên 102: 17)