Tìm kiếm sự giải phóng
Sáng hôm sau tôi thức dậy, những sự việc xảy
ra hôm trước lần lượt diễn ra trong đầu tôi, tôi ngủ không ngon lắm trong đêm đó.
Tôi nghĩ, có lẽ mình vừa nằm chiêm bao, nhưng không phải chiêm bao vình quyển
sách Tin lành đang nằm cạnh tôi đây. Vì tôi đã hứa với các chứng đạo viên và
các bạn đêm đó rằng tôi sẽ đọc hai quyển sách ấy, nên đêm qua, lúc trở về nhà,
tôi đã đọc quyển sách Tin lành Giăng từ đầu đến cuối, không phải là tôi hiểu gì
trong đó, nhưng tôi muốn giữ lời hứa thôi. _“Cuộc sống có thể thay đổi bây giờ
không? Có thể mọi sự sẽ đổi khác không?”, tôi lo lắng nghĩ như vậy. rồi những
ngày kế tiếp trôi qua, sự nghi ngờ lại chất đầy trí não tôi. Làm thế nào tôi có
thể hy vọng sống được đời sống Cơ-đốc nhân? Làm sao tôi có thể bỏ thuốc, bỏ rượu,
bỏ nghề mãi dâm? Thật khó quá cho tôi! Còn phù phép của tôi nữa thì sao? Làm
sao tôi có thể đuổi nó đi được?
Một giọng nói thành tiếng rõ ràng của
Luy-xi-phe (Lucifer): “Mày không thể bỏ những thứ này được, mày đã thuộc về tao
rồi, đã quá trễ cho mày”. Tôi nghĩ nó nói đúng. Tốt hơn hết là mọi sự qua một
bên. Tôi quăng quyển Tin lành Giăng vào hộc tủ rồi đi uống rượu ở một quán gần
chỗ làm. Trong lúc nhấm nháp rượu, tôi nhớ lại giọng hát của người ca sĩ hôm nọ:
“Không một ai khác có thể cất tội lỗi và sự tối tăm ra khỏi tôi, Ôi, Giê-xu,
Ngài lo lắng cho tôi dường nào! ”. Thật là ngớ ngẩn, tại sao bài hát cứ đeo đuổi
mình? _“Hãy quên điều đó đi”, Luy-xi-phe (Lucifer) lại nói nữa, “hãy uống nữa đi
rồi sẽ quên hết”. Thế nhưng, tôi chẳng quên được những điều đó chút nào, ngay cả
lúc tôi uống thật nhiều rượu. Làm sao tôi có thể quên được điều này, lúc nào
tôi cũng nghe: “Giê-xu săn sóc tôi, Ngài yêu tôi ”. Dù lúc nào, hoặc lang thang
nơi đường phố, hay lúc ngồi trong quán, cả lúc chích thuốc, những lời dịu ngọt đó
cứ vang lên bên tai tôi, bảo tôi rằng Giê-xu lo lắng cho tôi lắm. _“Đừng chú ý đến
nữa, những lời ấy không phải cho hạng người như mày đâu”, Luy-xi-phe (Lucifer)
bảo thế. Tôi nghĩ có lẽ mình sẽ hóa điên mất. Con người tôi chính là bãi chiến
trường tranh chấp giữa điều ác và chân lý, giữa quyền lực của sự tối tăm và
Chúa Cứu Thế, Con Một của Thượng Đế. Tôi nhận được một là thư của của chứng đạo viên hôm nọ. Tôi rất ngạc nhiên và cảm động về chẳng bao giờ tôi nhận được lá thư của ai. Đây là một lá thư rất thân ái: “Tôi đang cầu nguyện cho cô, mời cô đến hội trường lần nữa nhé”. Mặc dầu tôi rất cảm động nhưng tôi không chắc có thể trở lại hội trường nữa không? Luy-xi-phe (Lucifer) lại bảo tôi “Đừng đi, mày thuộc về về tao rồi”. Giọng hắn rất dữ dằn. Tâm trí tôi bấn loại, nhưng cuối cùng tôi đã đi. Như có quyền lực dịu ngọt nào đó đã kéo tôi đến buổi nhóm, tôi dự hai đêm kế tiếp nữa. Cũng ca sĩ hôm nọ, cũng vẫn khuôn mặt vui vẻ đó,và tôi ao ước làm sao được như nàng để phục vụ Chúa Giê-xu, được thoát khỏi quyền lực của sự tối tăm.
Chính ngay tối đó, Luy-xi-phe (Lucifer) hiện rõ hình hài, đứng cạnh giường ngủ tôi. Tôi không thể lầm được vì tôi đã từng thấy hắn và nghe hắn biết bao lần rồi. “Mày thuộc về tao, mày phải vâng lời tao; hoặc lánh xa Cơ-đốc nhân hoặc phải chết”. Gương mặt hắn đen xì trông rất dữ tợn. Tôi thấy một bàn tay khổng lồ lông lá vồ lấy tôi, tôi cố gắng vùng vẫy để thoát ra, tôi cố gắng cầu nguyện nhưng không hiện nghiệm. Quyền lực của Sa-tan quá mạnh đối với tôi. Rất rõ ràng, rất kinh tởm! Tôi nghĩ: “Có ích lợi gì đâu, mình đang ở dưới quyền của hắn và đã thuộc về hắn rồi, mình chẳng bao giờ trở thành một Cơ-đốc nhân thật sự”. Lại nữa, những lời ca của ca sĩ lại vang lên bên tai tôi: “Ta sẽ chống cự cho đến khi ta được tự do, tôi sẽ tìm kiếm chop đến khi ta gặp được sự tự do mà ta hằng mong mỏi ”. Thật là tuyệt diệu khi biết rằng một khi Chúa Giê-xu đã bắt đầu hành động trong ai đó thì Ngài chẳng bao giờ rời khỏi họ hoặc để cho họ chiến đấu một mình. Chúa Giê-xu chẳng bao giờ rời bỏ tôi, bây giờ tôi là con của Ngài. Mặc dầu cuộc chiến chỉ bắt đầu khi Giê-xu làm cho tôi nhận thức được sự hiện diện của Ngài mà cứ vững tâm giữ lòng khao khát được giải thoát khỏi xiềng xích. Người nữ chứng đạo đến thăm tôi, bà nói:
_“Nếu cô thật sự yêu mến và theo Giê-xu, cô phải bắt đầu liên lạc với các Cơ-đốc nhân khác, cô hãy gia nhập một Hội thánh Tin lành nào đó”
_“Tôi đồng ý, nhưng nhà thờ Tin lành ở đâu, hở bà?”
_“Chúng tôi không khuyên cô gia nhập vào một nhà thờ nào, hãy đến bất cứ Hội thánh Tin lành nào cũng được, có nhiều lắm ở quanh đây”. Không có thời giờ nhiều để tôi nói cho bà ấy biết rằng tôi là một phù thủy, một gái mãi dâm và một tên nghiện. Tôi lại lo sợ, nếu mọi người biết sự thật về tôi, rồi họ sẽ nghĩ gì?
Ra phố hôm nay là một việc bất từng. Tôi dạo qua mấy nhà thờ rồi, nhưng tôi chẳng thấy nhà thờ Tin lành đâu cả. tôi chỉ thấy nhà thờ Báp-tít và nhà thờ Anh quốc cùng các giáo hội khác thôi. Người chứng đạo nói có rất nhiều nhà thờ chung quanh đây, nhưng tôi không thể tìm được chỉ vì tôi đi tìm cái nhãn hiệu bên ngoài, từ ngữ không có nghĩa gì với một người như tôi, không gì cả.
Điều quan trọng là tôi muốn biết nhiều hơn về Giê-xu, tôi cố gắng thay đổi lối sống, nhưng nó vẫn không thay đổi trừ phi có một người nào đó giúp tôi, mặc dầu tôi đi đến nhà thờ để tìm giải thoát đi nữa. Bây giờ nếu bạn bảo bất cứ một cô gái mãi dâm nào đi nhà thờ, cô ấy sẽ cười và bảo: “Tôi hả? Tôi sẽ giống ai ở nhà thờ? Chắc không ai muốn tôi có mặt ở đó đâu”. Như thế, bạn có thể tưởng tượng tôi có cảm giác thế nào khi bước vào nhà thờ, điều mà dường như không thể xảy ra được đối với một người như tôi.
Tôi chẳng bao giờ quên được cảm tưởng đầu tiên khi tôi đến nhà thờ Tin lành về một tối nọ. Tối hôm đó, có rất đông tín hữu nhóm lại. Tôi e ngại nhìn hội chúng là những người có vẻ đáng kính trọng và thánh thiện. Phản ứng của tôi là hãy mau thối lui đi, nhưng không còn một chỗ trống nào phía sau, chỉ còn hai hàng ghế trống trước tòa giảng. Không có một nhân viên tiếp tân nào giúp tôi cả, tôi phải một mmh lấy can đảm tiến về phía trước để kiếm chỗ ngồi. Tôi vô cùng bối rối và lại một lần nữa, tôi thấy mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía tôi. Tôi cũng mặc đồ đen giống như bữa đầu tiên tôi đến buổi giảng Tin lành... Tôi phân vân không biết tại sao nhiều những người nhìn mình như vậy.
Buổi lễ bắt đầu bằng một bài Thánh ca, rồi ông mục sư cầu nguyện rất dài, rất nhiều vấn đề. Bản Thánh ca nữa tiếp theo rồi ông đọc Kinh thánh. Tôi chỉ có quyển Tin lành Giăng trong tay mà vị mục sư thì đọc sách khác. Cuối cùng vị mục sư bắt đầu giảng. Tôi chẳng hiểu một lời nào của vị mục sư hôm đó. Ông dùng những từ ngữ thuộc về thần học nên chẳng cảm động được tôi. Không có điều nào đơn giản cả. tôi chỉ muốn nghe một vài điều nào nói về Giê-xu thôi. Ví dụ như Giê-xu có thể đem bạn đến sự tự do, Giê-xu yêu bạn... vì tôi chỉ có thể hiểu những điều như vậy. Tôi bắt đầu thấy mệt mỏi và thèm thuốc. Tôi không thể ở đó lâu hơn nữa nên bước ra khỏi nhà thờ. Tôi đốt một điếu thuốc. Tôi nghĩ chắc mình chưa gặp cơ hội tốt, thôi cố gắng trở lại xem. Tôi bước vào nhà thờ, ngồi lại phía trước. Tôi thích nhất là giờ cầu nguyện. Tôi cũng cầu nguyện với ước mong Giê-xu sẽ hiểu tôi. Buổi nhóm chấm dứt. Vị mục sư ra đứng trước cửa để bắt tay chào mọi người. Tôi cố gắng lướt qua tránh mặt ông, nhưng tôi đã thất bại. Vị mục sư rất nhã nhặn với tôi. Ông tươi cười nói:
_“Chào cô, chúng tôi chưa gặp cô lần nào phải không?”
_“Dạ, chưa. Tôi chưa lần nào vào đây cả”.
_“Điều gì đã khiến cô đến đây, tối nay?”, ông tiếp, sau vài giây.
_“Tôi đã đến một buổi giảng Tin lành tại Hội trường Côn-xtơn (Colston Hall) và tôi đã dâng lòng tôi cho Giê-xu”
Tốt lắm! Tôi có thể giúp cô trên bước đường theo Chúa không?”
Tôi chợt nghĩ có lẽ là dịp tiện cho mình đây, tôi vội vàng trả lời:
_“Tôi không biết, nhưng nếu ông có thể! Ông biết không, tôi là một cô gái mãi dâm, một tên nghiện thuốc”.
Ông nhìn tôi quá đỗi ngạc nhiên, rồi mặt ông tái đi. Những người quanh đấy đứng im phăng phắc nhìn tôi. Sau khi lấy lại bình tĩnh, vị mục sư tiếp: “Xin mời cô đến lần sau nhé, chào cô”. Không có một ai muốn giúp tôi cả. nào, Giê-xu của họ ở đâu mà họ đã nói nhiều về Ngài chứ nhỉ?
Bây giờ nhìn lại quá khứ tôi thấy buồn cười quá. Những tín hữu cứ đi nhà thờ từ Chúa nhật này qua Chúa nhật khác khi không có việc gì xảy ra đụng chạm đến họ hoặc làm phiền cho buổi nhóm của họ. Thật là điều rất kỳ dị cho họ khi thấy một người như tôi bước vào nhà thờ, một người khác hẳn họ... Có lần tôi nghe một truyền đạo nói: “Chúng ta phải sẵn sàng cho mọi sự”. Nhưng họ chẳng sẵn sàng cho tôi tí nào. Kết quả là chẳng có gì tồn đọng lại trong lòng tôi từ khi bước vào cho đến khi ra khỏi nhà thờ. “Mình sẽ tiếp tục đi đâu nữa? Mình sẽ làm gì đây? Mình sẽ tìm được sự bình an ở đâu trong khi mình đang sống giữa một thành phố đầy dẫy nhà thờ này?”.
Vài tuần lễ trôi qua, và tôi cũng còn cố gắng đi tìm kiếm. Cuộc chiến càng trở nên dữ dội hơn. Luy-xi-phe (Lucifer) không bỏ sót một cơ hội nào trong nỗ lực kéo tôi trở lại với nó. Cuộc chiến càng căng hơn với nhiều việc khác xảy ra nhiều hơn, tôi lang thang đi vào rất nhiều nhà thờ và tại một vài nơi tôi có nghe nhắc đến huyết của Chúa Giê-xu. Khi nghe nhắc đến Huyết của Chúa Giê-xu thì quyền lực của sự tối tăm vây chặt tôi, điều khiển tôi, bắt tôi phải làm những chuyện trái phép. Tôi hành động theo đường gian ác của Sa-tan. Tôi túm lấy Kinh thánh và xé nát, tôi xé Thánh ca và quăng chung quanh nhà thờ. Tôi hất cái khay dự tiệc thánh trong đó có bánh mì và rượu nho. Tôi nằm lăn dưới nền nhà thờ, chống đối, kêu gào, quằn quại như một con rắn. Rồi thình lình tôi trở lại bình tĩnh và chẳng nhớ mình đã làm gì cả.; rất nhiều lần tôi chạy ra khỏi nhà thờ ôm mặt khóc nức nở, không ai có thể hiểu tôi cũng chẳng ai biết cái gì đã khiến tôi phải hành động như vậy. Vài người cho rằng tôi bị đau thần kinh. Nhưng tôi thì biết những điều tôi làm đó chẳng phải là tôi nhưng là một động lực khác thúc đẩy tôi, quyền lực của sự tối tăm ở trong tôi bức ép tôi làm.
Lúc ra ngoài nhà thờ, tôi cảm thấy có bàn tay vô hình xô đẩy tôi làm những điều mà tôi không muốn làm. Trước kia, tôi làm đĩ, thực tập ma thuật, uống rượu, chích ma túy mà không chút do dự, nhưng kể từ khi tôi dâng lòng mình cho Giê-xu thì những việc tôi đã làm đó không còn là ý muốn của tôi nữa, nhưng tôi bị bắt phải làm theo một quyền lực trong tôi điều khiển tôi.
Vì cuộc chiến không giảm bớt chút nào nên tôi quyết định tốt hơn là đừng đi nhà thờ. Tôi lý luận “Có lẽ mình điên mất, vả lại, mình đi nhà thờ có ích gì đâu”. Tôi gần như thối lui rồi. “Kinh thánh chép: Hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa thì mở cho _Giê-xu lo liệu, Giê-xu săn sóc”. Trong lúc chán nản, những lời trên lại vang lên trong tai tôi rõ ràng hơn bao giờ hết. Thánh Linh đã giúp tôi cố tìm cho đến khi nào gặp được. Tôi muốn sống cho Giê-xu nếu Ngài yêu tôi.
Một sáng Chúa nhật kia, tôi cố gắng thử một lần nữa. Chúa Giê-xu đã tìm kiếm
tôi từ trong tối tăm, từ trong cái lầm lẫn của tôi. Tôi muốn đến nhà của Chúa để
cầu nguyện, nhưng khi tôi bước vào nhà thờ thì Sa-tan liền nắm lấy quyền điều
khiển tôi... Khi tôi tỉnh lại, tôi thật ngỡ ngàng: Cái khay tiệc thánh bị nghiền
nát với rượu nho bị đổ tung tóe. Tôi ra ngoài nhà thờ khóc lóc nức nở rồi đâm đầu
chạy xuống đường giống như ở địa ngục với các quỉ dữ. Tôi cố sức chạy,
Luy-xi-phe (Lucifer) lên tiếng: “Tốt hơn hết là mày chết lúc này đi, chết đi,
chết đi, chết, chết...”. Hắn chế nhạo tôi. Tôi chạy như một con hổ đuổi theo một
con mồi. Tôi đến trước các cầu nhỏ, nhảy qua lan can suýt rớt xuống nước, thì
thình lình một người đàn ông kéo tôi lại. Ông ấy nói: “Cô có biết cô đang làm
gì không? Đừng dại dột thế!”. Tôi xô ông ta rồi lại chạy nữa. Tôi ẩn mình vào một
phòng điện thoại khóc nừc nở, toàn thân tôi run lẩy bẩy. Khi dần dần tỉnh lại,
nhìn lên tường tôi thấy số điện thoại của một vị mục sư, ông Xtan-ly-Gieo
(Stanley Jell). Tôi đọc lại rồi gọi điện cho ông. Tôi không nhớ tôi đã nói gì với
ông vì tôi đang ở trong tình trạng bất an. “Xin mời cô đến nhà thờ”. Ông cho
tôi tên ông và địa chỉ, vì vậy, chẳng bao lâu tôi có mặt tại nhà thờ Báp-tít ở đường
Nữ hoàng Bờ-rít-tôn (Bristol). có hai người đàn ông đang đứng đó đợi tôi. Một
là mục sư Gieo (Jell), và một là truyền đạo Đen-ni Cờ-lát (Dennis Clark). Họ rất
tử tế và tỏ ra thông cảm với tôi trong lúc tôi nức nở kể cho họ nghe một phần
trong cuộc đời tôi. Lúc đó, quyền lực của Sa-tan lại nổi dậy trong tôi. Tôi chống
cự hai vị này khi họ đặt tay trên đầu tôi để cầu nguyện. Hai ông có vẻ không ngạc
nhiên lắm về hành động của tôi, họ chỉ thôi cầu nguyện vì tôi chống đối dữ quá.
Họ vẫn nói chuyện với tôi rất tử tế. Họ bảo: “Chúng tôi biết một người có thể
giúp cô đó là mục sư Báp-tít ở bờ biển Tên ông là A-thơ Nên (Arthur Neil).
Chúng tôi sẽ liên lạc với ông và sẽ cho cô biết khi nào cô gặp ông ấy được”. Đây
là cơ hội tốt cho tôi. Vâng, cuối cùng tôi đang ở trên con đường đi đến tự do.
Ngón tay của Đức Chúa Trời
Chiều hôm sau, Mục sư Nên (Neil) đến với
hai vị mục sư hôm trước. Tôi thấy họ tới cổng và bước vào cửa. Thình lình, một
giọng nói với tôi: “Đừng mở cửa, đừng liên lạc gì với họ hết”. Tôi kinh hãi quá
đỗi vì ngay lúc đó tôi hiểu rằng quyền lực của sự tối tăm ở trong tôi, đáng sợ
hãi hơn tôi nữa; còn tôi thì biết rằng mục sư Nên (Neil) là người có thể giúp
tôi, nên mặc dầu sợ, tôi vẫn mở cửa để đón rước ông. Mục sư Nên (Neil) quả thật
là lạ đối với tôi. Tôi biết rằng ông là một người thánh của Đức Chúa Trời. Tôi
cũng thấy mình đen thui như than và xấu xa như quỉ trước mặt ông. Ông hiểu tôi,
ông khiến tôi thấy dễ chịu, ông rất hiền từ và tử tế. Tình yêu như chiếu ra từ đôi
mắt ông. Tôi phải ngó lơ qua chỗ khác tránh đôi mắt ấy. Có cái gì sâu kín trong
lòng tôi chống cự ông, nhưng chẳng phải chính tôi làm điều đó. Ông bắt đầu câu
chuyện:
_“Những giọng nói mà cô nghe đó có xưng tên không?”.
_“Dạ không”.
_“Có ác linh nào trong cô không?”.
Cho đến bấy giờ tôi mới nhận thức rằng có uế linh ở trong tôi. Chúng làm chủ thân thể tôi. Rồi Sa-tan lại nói nữa nhưng chỉ một mình tôi nghe thôi: “Hãy nói với ông ta rằng chẳng có chi cả”. Bây giờ thì tôi lấy làm lạ. Lần đầu tiên tôi biết chúng cư trú trong tôi, không phải ở bên ngoài. Tôi giật mình rợn tóc gáy. Tuy nhiên, tôi lại nghe hắn mà trả lời với ông ấy rằng không có chi cả, không có ác linh nào trong tôi cả. Nhưng mục sư Nên (Neil) không cần nghe, ông biết rõ rằng tôi bị uế linh ám. Ông chỉ tay vào tôi và nói với ma quỷ bằng tiếng lạ. Ông truyền cho tà ma phải ra khỏi tôi nhân danh Giê-xu. Tôi kinh sợ ngồi xuống ghế. Tà ma ở trong tôi càng sợ hơn nữa. Mục sư Nên (Neil) đặt tay trên đầu tôi như hai vị kia đã làm hôm trước. Quyền lực của sự tối tăm ở trong tôi đang run rẩy quá đỗi. Sau đó, mục sư Nên (Neil) nói rằng ông đã dùng quyền lực nói tiếng lạ mà đuổi quỉ. Tôi tin rằng tôi sẽ được giải phóng. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn lúc nãy. Khoảng hơn một giờ sau đó các vị mục sư ra khỏi nhà tôi.
Tuy nhiên, mục sư mục sư Nên (Neil) bảo rằng việc giúp tôi thoát khỏi quyền lực của sự tối tăm chỉ là bước đầu của chuỗi ngày dài còn tiếp theo. Ông nói thật chẳng ngoa chút nào. Nếu tôi cảm thấy dễ chịu khi ở với các vị mục sư bao nhiêu thì ngay đêm đó tôi trải qua một đêm kinh hoàng bấy nhiêu. Ngay tờ mờ sáng hôm sau, tôi đã thức dậy trong sự kinh khiếp, tôi bị bủa vây bởi quyền lực của Sa-tan. Tôi nghe có tiếng nói của ma quỷ, nhưng lần này chúng cho biết tên, trong tôi như bị ai đem xé ra từng mảnh, tôi nghe chúng nói: “Đừng liên lạc gì với ông Nên (Neil) hết. Ta là Nghi Ngờ và Không Tin. Ta sẽ không ra khỏi đây”. Thế rồi có những tiếng kêu lớn lên rằng: “Ta cũng không ra - Ta cũng không ra, tôi cũng không, tao cũng không...”. Âm thanh nghe như một điệp khúc lớn dần, lớn dần, tôi rợn tóc gáy, tấm khăn trải giường ướt đẫm mồ hôi. -“Ta là Gian Tà”, đứa khác nói. -“Ta cũng không đi, ta là Ma Thuật”, một giọng nói nghe rất uy quyền. -“Ta là Kiêu Ngạo, ta cũng sẽ không ra khỏi đây”. -“Ta cũng không - Ta cũng không - Ta cũng không...”. Tà ma cứ lần lượt nói, hết con này đến con khác. Tôi nghĩ chắc mình sẽ điên mất. Bây giờ thì tôi chưa điên, nhưng nếu tà ma không ra khỏi tôi thì nhất định tôi sẽ điên. Tôi tự hỏi: “Giê-xu ở đâu? Sự sống ở đâu?”. Mắt tôi chẳng thấy sự sáng chi hết. Sự tối tăm của địa ngục như phủ trùm tôi. Cuối cùng tôi ngồi dậy, tôi nghe một giọng khác nói: “Hãy gọi điện thoại cho mục sư ở Hội thánh Báp-tít bảo đừng đến đây nữa”.
Tôi gọi điện thoại cho mục sư để
nói cho ông biết những gì đã xảy ra cho tôi sáng nay, nhưng vợ ông trả lời rằng
ông đang trên đường đến nhà tôi. Tà ma trong tôi không cho tôi ngồi xuống. Vào
lúc 11 giờ sáng tôi nghe tiếng gõ cửa và tôi biết đó là vị Mục sư... Ông vẫn
nhu mì như bao giờ. Tôi nói với ông những tên mà tôi đã nghe sáng nay, ông bảo
tôi đừng sợ, ông sẽ liên hệ với mục sư Nên (Neil) ngay. Nghe đến tên mục sư Nên
(Neil), tôi cảm thấy sợ hãi, nhưng không phải chính tôi, một lần nữa tôi biết
những tà ma trong tôi rất run sợ. Mục sư Gióp (Jobb) giải thích rằng vì cớ mục
sư Nên (Neil) ở tận bờ biển Bơn-hem (Burnham) nên tôi không thể gặp ngay được.
-“Tôi sẽ cho cô biết khi nào ông ấy đến. Trong lúc chờ đợi, cô đừng lo lắng
quá, tôi sẽ cầu nguyện cho cô”. Vài ngày sau thì mục sư Nên (Neil) lại đến. Ông
rất bận việc vì là mục sư của một Hội thánh lớn. Vài ngày chờ đợi này giống như
những năm dài đằng đẵng. Tôi đi xuống các chỗ quen thuộc khi xưa: phòng trà, rạp
chiếu bóng, bãi thực tập phù thủy, nhưng tôi cảm biết rằng tôi bị đẩy đến những
chỗ này, tà ma cầm quyền điều khiển tôi. Cũng trong thời gian này tôi có đến
vài nhà thờ rồi chạy ra, chẳng nhớ tôi đã hành động những gì nữa. Tôi uống rượu
nhiều hơn bao giờ hết, tôi đi các nơi nhưng chẳng nhớ là mình đã đi đâu. Tôi
luôn luôn mặc bộ đồ đen phù thủy, những lúc tôi hoàn toàn bình tĩnh lại thì tôi
muốn tìm kiếm sự trong sạch, sự tự do thật, sự yêu thương và sự phục vụ Giê-xu
và chỉ một mình Ngài mà thôi. Bây giờ tôi giống như có hai con người vậy. Một
là gái mãi dâm, nghiện thuốc và một con người khác là được thay đổi hoàn toàn, được
hưởng sự vui mừng và sung sướng.
Một sáng thứ bảy, tôi nghe nói mục sư Nên (Neil) đến, khi nghe thế thì uế linh trong tôi bắt đầu run rẩy. Tôi run từ đầu đến chân. Tà ma ra lệnh cho tôi: “Hãy xa lánh mục sư Nên (Neil). Ông ta rất thánh, rất thánh khiết đối với chúng ta, tránh xa đi, đừng đến nhà thờ”, hàng ngàn tiếng nói như sấm vang lên trong tôi, thế rồi người chứng đạo viên hôm nọ đem xe chở tôi đến nhà thờ gặp mục sư Nên (Neil). Một lần nữa tôi nhận biết rằng ông là người rất thánh của Đức Chúa Trời. Tôi cảm biết các tà ma trong tôi đang run sợ. Tôi định trốn nhưng không được, mục sư Nên (Neil) mỉm cười với tôi, ông làm tôi thấy dễ chịu, cặp mắt ông như nhìn thấu tâm can tôi. Tôi cố gắng hết sức để nói rõ với ông nhưng trong lúc nói thì ý nghĩ của tôi chạy đâu mất. Tôi bị tà ma lôi kéo nhưng mục sư Nên (Neil) lại biết điều này rõ lắm.
Bây giờ ông nói tiếng lạ, dùng ngón tay trỏ chỉ một cách đầy uy quyền. Tôi
không nhớ gì nữa, tà ma đã giành quyền điều khiển tôi. Sau khi tỉn lại thì mục
sư Nên (Neil) cho tôi biết những gì đã xảy ra: “Có 6 con tà ma đã ra khỏi cô,
chúng nói qua môi miệng cô, con Nghi Ngờ đã ra khỏi cô với một quyền lực rất lớn,
hai vị mục sư phải giữ cô trong lúc tôi ra lệnh cho các tà ma ra khỏi cô nhân
danh Chúa Giê-xu tôi truyền cho chúng nó phải xuống địa ngục. Tà ma không muốn
ra khỏi cô cũng không muốn xuống địa ngục trước thời điểm của chúng, nhưng cuối
cùng chúng phải ra với những tiếng la kinh tởm. Chúng xâu xé thân thể tôi, cuộc
tranh chấp xảy ra khoảng hai hay ba tiếng đồng hồ. Lần này thì các tà ma như
Nói Láo, Tà Dâm, Kiêu Ngạo và Ma Thuật bị đẩy xuống địa ngục. Tà ma của Ma Thuật
rất ồn ào, mục sư kể lại, nó than thở khi phải xuống địa ngục. Mục sư nói tiếp:
“Cô có biết phù phép của En-Đo (Endor) không? Nó thét, hú thật rùng rợn, nó cố
gắng thôi miên tôi, nhưng tôi chống cự nó trong danh Chúa Giê-xu, truyền cho nó
phải xuống địa ngục. Rồi tà ma khác nữa, tên nó là Pháp Linh, nó kêu lên:
“Không phải ở đó, không phải ở đó, ta đã chiếm hữu thân thể này từ lâu rồi, ta
sẽ không bao giờ rời khỏi, ta cần một thân thể. Không phải ở đó, không phải ở đó,
không phải ở địa ngục”. Tôi truyền lệnh cho nó: “Mầy không được ở trong thân thể
người này nữa hoặc bất cứ thân thể ai khác. Ta truyền cho mầy phải rời khỏi
thân thể người này ngay bây giờ phải xuống địa ngục, nhân danh Chúa Giê-xu”.
Tuy nhiên, con quỉ Pháp Linh rất cố chấp, nó mặc cả dùng dằng mãi đến trước khi
mục sư Nên (Neil) ra lệnh cuối cùng mở cửa hông bên cạnh, truyền cho tà ma phải
rồi khỏi thân thể tôi mà xuống thẳng địa ngục. Nó la lớn: “Được rồi, ta sẽ đi,
ta sẽ đi”. Mục sư nói, tôi bị té xuống nền nhà cho đến khi tỉnh lại, nhưng tôi
không nhớ những gì đã xảy ra. Tôi chỉ biết một điều là tôi được trả tự do, các
tà ma đã ra khỏi tôi. Tôi cúi đầu cầu nguyện cảm tạ Chúa Giê-xu đã giải phóng
tôi. Tôi rất mệt, cổ tôi bị bầm tím, cả xương sườn và cánh tay tôi nữa. Có tất
cả 6 tà ma đã ra khỏi tôi.
Mục sư Nên (Neil) cầu nguyện cho tôi rồi ông ra về.
Tôi cảm biết mình được sung sướng và tự do. Thật là tuyệt diệu! Tối hôm đó, tôi ngủ ngon như một đứa trẻ, một giấc ngủ mà tôi đã mất hằng bao nhiêu năm rồi.
Tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn sau thì tà ma lại hiện rõ trong tôi nữa. Vài đứa nói tên, có đứa thì không. Tôi thất vọng quá đỗi vì tưởng rằng tất cả tà ma trong tôi là chừng ấy và đã bị trục xuất hết rồi. Chính tôi đã lầm nhưng mục sư Nên (Neil) thì không và ông hẹn tôi đến địa điểm hôm trước. Các bạn thấy đó, cuộc đời tôi đã để cho ma quỷ làm chủ, nhưng từ khi tôi muốn được tự do thì Chúa Cứu Thế Giê-xu đã giúp tôi. Không phải Ngài không thể đuổi tất cả tà ma ra khỏi tôi chỉ trong một lần, như Ngài đã làm lúc còn ở thế gian, nhưng như tôi đã nói, Ngài có đường lối riêng của Ngài. Ngài muốn các vị mục sư cũng như các Cơ-đốc nhân khác phải chứng kiến tà ma ở trong một con người là thế nào. Còn phần tôi, tôi đã học được một bài học đích đáng.
Giê-xu là Đấng chiến thắng
Thời gian, ôi thật là dài! Lúc này tôi rất
bận rộn. Tục ngữ có câu: “Ma quỷ tìm việc cho bàn tay nhàn rỗi”. Đúng vậy,
chúng nó đã tìm việc cho tôi! Sáu tà ma đã ra khỏi tôi và các tà ma khác cũng
tiếp tục bị đuổi ra, những tà ma còn lại cũng sợ hãi vì sẽ phải bỏ nơi mà chúng
chiếm cứ từ lâu nay. Đuổi ra cho hết đám quỷ đó cũng phải mất một thời gian dài
mà mục sư Nên (Neil) phải kiêng ăn cầu nguyện trước mỗi lần giúp tôi. Tôi biết
rằng ông phải đối phó với quyền lực tối tăm, vì vậy, kiêng ăn cầu nguyện là việc
cần thiết để ông được đầy năng lực của Đức Thánh Linh.
Tà ma Quấy Rối là con quỷ tiếp theo bị đuổi ra. Vì nó mà tôi khốn khổ cả đêm lẫn ngày không lúc nào yên. Có vài lần trong cơn mê, tôi thấy bàn tay có vuốt nhọn của nó nắm lấy tay tôi. Khi thức dậy, thân thể tôi bị bầm tím cả. Ban ngày, tôi bị nó bắt đi từ chỗ này đến chỗ khác, tôi đi mà không biết mình đi đâu; cuối cùng về đến nhà, tôi mệt lả rồi lại nằm chiêm bao càng hãi hùng hơn trước nữa.
Lần thứ ba đi gặp mục sư Nên (Neil), tà ma Quấy Rối bảo tôi: “Hãy cầm theo một con dao và giết mục sư Nên (Neil) đi!”. Tôi vâng lời lấy một con dao bỏ vào xách tay. Nó ra lệnh cho tôi: “Giết hắn đi, Giết hắn đi!”. Vừa khi tôi đến nhà thờ, nó làm tôi loạn trí. Tôi nhận ra được điều này: Tà ma chỉ thấy mục sư Nên (Neil) qua cặp mắt của tôi, chúng biết mục sư sắp làm gì và mục sư cũng nhìn vào mắt tôi để ra lệnh cho tà ma. “Giết, giết”, con quỷ Quấy Rối lại ra lệnh nữa. Tôi không còn nhớ gì nữa cho đến khi con quỷ này ra khỏi tôi. Sau đó, mục sư kể lại rằng: Tôi đã cầm một con dao lớn và nhọn với mục đích đâm mù mắt ông. Tuy nhiên, ông đã khéo léo và dễ dàng chụp được con dao. Trong lúc mục sư cầu nguyện cho tôi thì có đến mười người đàn ông giữ tôi. Sự kèn cựa dùng dằng xảy ra cũng rất lâu vì chúng không chịu rời khỏi thân thể tôi. Sau một giờ chiến đấu tà ma phải kêu lớn tiếng lên, ra khỏi tôi và xuống thẳng địa ngục.
Giê-xu là Đấng toàn thắng
Mục sư la lên: lần này có bảy con quỷ ra
khỏi cô. Thế mà tôi cũng chỉ yên được một thời gian ngắn, những tà ma khác còn
lại trong tôi xưng tên chúng ra. chúng không chịu xuống địa ngục vì đó là nơi
cuối cùng của chúng. Chúng cố biện hộ rằng chưa đến giờ chúng phải xuống đó. Nhưng
mục sư gạt bỏ lời yêu cầu của chúng, có nhiều tà ma còn dẫn chứng Kinh thánh và
bàn cãi lẽ thật. Vài đứa nói rõ nó đã chiếm hữu thân thể tôi mười lăm năm rồi.
Mục sư giải thích rằng con uế linh đã chiếm thân thể tôi từ khi tôi bước vào
nghề mãi dâm ở đại lộ Pát-đinh-tân (Paddington) lúc tôi mười lăm tuổi. Sau hồi
lâu kèn cựa nó mới chịu rời thân thể tôi với tiếng kêu lớn. Nó rất mạnh. Thông
qua thân thể tôi dùng đủ cách để quyến rũ, thu hút mục sư, nhưng cuối cùng nó
phải chịu thua mà xuống địa ngục. Con quỷ Lét-bi-an (Lesbian) hiện ra rất rõ
ràng, nó đối thoại với mục sư bằng một giọng rất hay, không phải giọng quê mùa
của tôi. Mục sư nhắc đến Ma-ri Ma-đơ-len (Mary Madeleine), nhưng tà ma liền la
lối: “Đừng nói với ta về Ma-ri Ma-đơ-len (Mary Madeleine). Ta là quỷ Phản Bội, đừng
nói nữa”. Mục sư nhắc đến Gô-gô-tha, nơi Sa-tan cùng quỷ sứ đã bị sỉ nhục bởi sự
đắc thắng của Chúa Cứu Thế Giê-xu thì: “Đừng nói với tao về đồi Gô-gô-tha, tao đã
ở đó, tao có ở đó. Lâu lắm rồi trước khi tao chiếm hữu thân thể này, tao đã ở đó,
đừng nói với tao về đồi Gô-gô-tha!”
Mục sư nói lớn: “Giê-xu là Đấng Toàn Thắng, Giê-xu là Đấng Toàn Thắng!”. Sau mỗi lần như vậy tôi cúi đầu cảm tạ Chúa Giê-xu, tôi hết lòng cảm tạ Ngài vì Ngài giải thoát cho tôi được tự do. Mục sư thường tuyên bố những lời mà tôi chẳng bao giờ quên: “Giê-xu mạnh hơn Sa-tan và tội lỗi. Trước mặt Ngài Sa-tan phải cúi đầu”.
Một lần kia, tôi được thấy chính Chúa Giê-xu, Ngài đứng phía sau mục sư, Chúa thật dịu hiền. Ngài mặc áo tỏa hào quang, sáng khắp cả phòng, mặt Ngài rất nhân từ, mắt Ngài đầy dẫy tình thương và Ngài đang nhìn thẳng tôi. Tôi biết rằng Ngài rất yêu tôi. Tôi biết tôi là con của Ngài. Tôi chẳng bao giờ quên Giê-xu có thể hiện thân thành một con người như tôi, và vì quả thật tôi rất cần hình ảnh thật của Ngài. Lúc bấy giờ cuộc chiến chưa chấm dứt còn lâu nữa. Dĩ nhiên Sa-tan không muốn mục sư tiếp tục công việc, chúng cố tìm cách ngăn trở.
Luy-xi-phe (Lucifer) bảo tôi: “Hãy trở lại bãi hoang tập lại phù thủy đi, hãy gạt bỏ những điều phi lý này đi”. Bây giờ tôi đã được tự do, con quỷ Phù Phép đã ra khỏi tôi rồi nên tôi rất dạn dĩ trả lời nó: “Không, tao chẳng bao giờ tới bãi hoang để thực tập nữa đâu". Tuy nhiên, tôi lại chợt nghĩ rằng tôi sẽ trở lại bãi hoang với một ý định và công việc khác. Càng suy nghĩ về điều đó tôi càng cho rằng đó là việc đúng và cuối cùng tôi đã ra đi.
Thưa quý độc giá, đó là một việc làm rất dại dột của tôi. Tôi đến bãi hoang và bọn chúng trả lời tôi bằng những cú đòn. Chúng kéo lê tôi vào một cái xe, đem tôi đến nơi vắng vẻ, tại đó chúng làm cho tôi bị câm. Chúng để tôi ở đó và tin rằng tôi sẽ chết trong giây lát thôi. Tuy nhiên, có một người đã thấy tôi và đem tôi vào bệnh viện. Ở bệnh viện tôi phải mất bốn ngày để chữa những vết thương do bị đánh. Giê-xu đã đặt tay Ngài trên tôi mặc dù tôi thật quá dại dột trong ý riêng của mình và một lần nữa kế hoạch của Sa-tan lại bị thất bại. Dù vậy, tôi học được một bài học và tôi chẳng bao giờ trở lại bãi hoang thực tập của phù thủy nữa.
Trong vòng hơn năm tháng, đã có nhiều tà ma ra khỏi tôi nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn được tự do. Tôi cảm thấy nản. Cho đến bao giờ tôi mới được hoàn toàn tự do? Năm tháng quả thật là dài. Khi nào thì con quỷ cuối cùng mới ra khỏi tôi? Các tín hữu cũng chán nản. Mục sư Nên (Neil) cũng cùng một tâm trạng đó nhưng ông vẫn tiếp tục công việc. Tôi rất vui khi ông tiếp tục vì nếu không, tôi không thể sống còn được như ngày nay và tôi chẳng bao giờ viết được quyển sách này. Thấy tôi chán nản, Sa-tan bảo tôi hãy chấm dứt việc gặp gỡ mục sư Nên (Neil). Một tối kia thật là kinh khủng, tà ma còn lại trong tôi rất mạnh, chúng chế nhạo tôi, chúng bắt tôi làm điều ác, tôi đi tìm ma túy, nhưng tôi không tìm được. Bạn biết không, tôi vẫn còn chích! Không một ai biết điều này cả. ngay cả mục sư Nên (Neil), mặc dù ông chỉ biết một cách loáng thoáng rằng tôi có hút một vài loại nào đó nhè nhẹ thôi. Tôi khóc lóc rên rỉ, trong tình trạng này, vì thế tôi bị đem vào nhà thương điên. Ở đây họ cho tôi uống thuốc ngủ, tôi ngủ suốt hơn một tuần lễ. Khi mới vào tôi cố gắng giải thích cho họ biết tại sao tôi bị như vậy, nhưng họ chẳng thèm nghe. Họ cho rằng tôi bị đau thần kinh nặng, thật sự tôi bị đau nặng, nhưng ai đã làm tôi đau? Dĩ nhiên không phải ma túy đâu. “Ma quỷ, ma quỷ”, bác sĩ rầy tôi: “Đừng nói sàm, không bao giờ có ma quỷ hết, chỉ cần chữa thuốc một thời gian rồi sẽ hết ngay”. Tôi bị cho uống thuốc ngủ hơn mười ngày. Khi thức dậy tôi tự nghĩ phải chăng tôi đã nằm mơ. Khi đã bình tĩnh tôi nghĩ rằng “Thôi, chẳng nên nói chi về Giê-xu trong lúc này khi họ cho rằng tôi điên nặng. Bây giờ thì tôi hết ghiền thuốc rồi. Đó là điều tốt cho tôi, nhưng bác sĩ cứ bắt tôi uống hết liều thuốc ngủ này đến liều khác, uống mãi, tôi sợ tôi sẽ bị loạn trí vì thuốc, nhưng họ đâu chịu nghe tôi, không ai thèm để ý đến điều tôi nói.
Sa-tan bảo tôi “Thấy không, mầy điên rồi, mầy sẽ chẳng bao giờ được ra khỏi đây, hoặc có ra được đi nữa, mầy cũng sẽ điên mãi mãi”. Tôi chán quá nên gần như tin lời đó là thật. Sa-tan cười nhạo tôi “Ha...ha...hă, Mầy đã trở thành con người của tao rồi”. Không ai chịu tin rằng ma quỷ có thể chiếm hữu một con người. Tôi suy nghĩ còn thứ gì sẽ xảy ra nữa, hay tôi bị nhốt ở đây suốt đời sao? Tất cả như đêm tối. Luy-xi-phe (Lucifer) lại chế nhạo nữa: “Nào, Giê-xu của mầy ở đâu?”. Tôi cũng tự hỏi: “Ừ nhỉ, Giê-xu ở đâu?”. Người ta lại rọi điện trong đầu tôi, tôi biết làm như thế chẳng ích gì, tà ma chẳng bao giờ ra khỏi tôi theo cách đó cả. một ngày kia, tôi kéo tay người y tá lại phân trần với cô ấy rằng trước kia tôi là một gái mãi dâm, hút xách, nhưng có một đêm tôi đến dự buổi giảng Tin lành và tôi đã dâng lòng tôi cho Giê-xu, cô nghĩ gì về điều ấy? Cô y tá trả lời:
_“Ồ, cô bị điên nặng lắm rồi, không có Giê-xu nào cả, đó chỉ là những điều phi lý thôi”
Tôi trả lời:
_“Ừ, phải chi cô là một tên phù thủy, một gái mãi dâm, một con nghiện bị người ta hiểu lầm và cô muốn có một cuộc sống mới trong Chúa Cứu Thế Giê-xu nhưng cô bị người ta cho rằng đó là những điều phi lý, thì thưa cô, cô nghĩ sao?”
Nàng yên lặng quay đi. một lát sau, cô trở lại bảo tôi:
_“Cô biết không, cô nói đúng lắm. Cô khác với tất cả các bệnh nhân khác ở đây”.
Về phần tôi lúc này tôi bị ghiền thuốc ngủ, tôi không thể ngủ được nếu thiếu nó. trung bình mỗi đêm tôi chỉ ngủ được khoảng ba tiếng đồng hồ. Thế rồi bác sĩ đem tôi đi rọi điện nơi đầu, họ cho rằng tôi bị đau óc vì chất thuốc phiện gây nên. Tôi điên đầu với mọi điều mới xảy đến cho tôi. Tất cả chỉ vì tôi muốn trở thành một Cơ-đốc nhân. Sa-tan nhạo tôi “Có phải Giê-xu là Đấng Toàn Thắng không? Nào Giê-xu của mầy ở đâu?”. Lạ lùng thay trong lúc khủng hoảng như vậy thì lời đơn ca hôm nọ lại vang lên bên tai tôi:
“Giê-xu săn sóc, Giê-xu giúp đỡ, Ngài có thể cất tội lỗi và sự tối tăm đi ”.
Tôi biết rõ một điều là chỉ có Giê-xu mới giải thoát được cho tôi mà thôi, bác sĩ không làm chi cho tôi được bây giờ. Tôi hồi tưởng lại hình ảnh Chúa Giê-xu. Có phải tôi nằm mơ không? Dĩ nhiên là không. Giê-xu rất thực hữu, Ngài thật sự giúp đỡ tôi.
Quá sức ngạc nhiên, tôi được bác sĩ cho xuất viện một tuần lễ. Cũng trong tuần lễ này, mục sư Nên (Neil) giảng tại Bơ-rít-tôn (Bristol). Chúa đã giúp đỡ tôi đúng lúc, tôi biết điều đó. Tôi đi thẳng đến nhà thờ để gặp mục sư Nên (Neil).
“Thưa mục sư, xin ông đuổi nốt những con quỷ còn lại cho tôi. Tất cả! Bây giờ hay chẳng bao giờ nữa, sự tối tăm hay sáng láng, Sa-tan hay Giê-xu, vui mừng hay điên khùng”.
Mục sư Nên (Neil) mời một số con cái Chúa ở lại hợp tác với ông để cầu nguyện. Thì giờ sau đó tôi không còn biết chi nữa cho đến nửa đêm. mục sư Nên (Neil) thuật lại rằng những con quỷ còn lại trong thân thể tôi đã phải ra hết với những tiếng la lớn. Cuộc chiến đấu với quyền lực của sự tối tăm đã xong. Giê-xu là Đấng chiến thắng. Tất cả chúng tôi đều hân hoan. Tôi không tả được sự vui mừng của chính tôi đêm ấy. Từ đêm đầu tiên, khi mục sư đã đuổi bảy con quỷ ra khỏi tôi cho đến nay quả thật là lâu, nhưng nó xứng đáng để chờ đợi, mục sư Nên (Neil) biết điều ấy và tôi cũng biết. Tôi rời nhà thờ sau lời cầu nguyện cảm tạ, lời cảm tạ của một người được tự do. Sau đó tôi trở lại nhà thương, họ chiếu điện trở lại cho tôi, óc tôi chẳng bị hư tí nào, nó rất bình thường. Bác sĩ nói “Đây là một phép lạ”. Ông ấy nói đúng, một phép lạ mà Chúa Giê-xu của tôi đã làm. Giê-xu là Đấng mạnh hơn Sa-tan và tội lỗi. Ngài đã đè bẹp Sa-tan tại đồi Gô-gô-tha và hiện nay Ngài đang sống và vẫn còn làm những điều kỳ diệu trên thế gian này. Ngài vẫn đuổi tà ma, Ngài vẫn chữa bệnh cho kẻ đau thân thể và linh hồn.
Vâng, Giê-xu là Đấng thực hữu, Giê-xu rất kỳ diệu...
Sự bình an tại Bê-tha-ni
Sau cuộc giải phóng khỏi quyền lực tối tăm
tháng 2 năm 1965, tôi không gặp lại mục sư Nên (Neil) gần hai năm vì ông đổi đi
xa. Tôi trở vào nằm bệnh viện gần hai tuần lễ rồi họ cho tôi xuất viện. Các
nhân viên nhà thương đều ngạc nhiên vì họ thấy tôi thay đổi nhiều. Họ nói:
“Trong cô mạnh khẻo hơn, hồng hào hơn, giống như lâu lắm mới gặp lại cô vậy”.
Tuy nhiên, tôi chẳng nói gì với họ hết, thời gian sẽ làm cho họ hiểu điều gì đã
xảy ra trong đời sống tôi, điều gì đã thay đổi tôi như thế. Những lúc nhàn rỗi,
tôi làm công việc vặt như chải đầu cho các bệnh nhân khác, kể chuyện cho họ
nghe hay giúp họ những việc mà tự họ không làm được. Còn tôi thì khổ nỗi bây giờ
lại nghiện thuốc ngủ. Các bác sĩ nói rằng họ lấy làm tiếc vì cho tôi uống những
thuốc ấy. Họ khuyên tôi nên bỏ lần lần, nhưng thưa quý độc giá, nói thì dễ hơn
làm. Sau khi ra khỏi nhà thương, tôi cũng cần được săn sóc về trí tuệ và tinh
thần. Tôi thấy buồn vì tôi khó thoát ra khỏi những thói xấu của tôi. Khi tôi bắt
đầu đi trên đường hẹp của tôi, Sa-tan lại tấn công tôi nhiều hơn. Sự tối tăm dường
như một lần nữa lại bao trùm tôi. Thay vì bớt uống thuốc ngủ, tôi uống nhiều hơn
trước. Có một điều gì đó thiếu sót trong đời sống tôi. Điều mà tôi rất cần lúc
bấy giờ là tình yêu và sự thông cảm. Tôi có cảm tưởng các tín hữu sợ tôi, họ ít
khi dám nói chuyện lâu với tôi. Có lẽ cái quá khứ ghê gớm của tôi đã in sâu vào
đầu họ, khiến họ không thể tin tưởng tôi được. Tôi phải tập đi, tập nói như một
em bé trong Chúa Giê-xu. Một vài người bạn khuyên tôi nên về tĩnh dưỡng ở vùng
quê một thời gian. Tôi không vui lắm khi nghe họ đề nghị như vậy. Nhưng rồi tôi
nghĩ lại “Sao mình làm cho bạn buồn trong lúc họ cố gắng giúp mình”. Vì thế tôi
đồng ý cho họ đưa tôi đến một vùng quê mặc dù tôi không vui chút nào. Tôi tự
nghĩ “Có sao đâu, mình đến đó không thích thì cút về chứ có ai làm gì mình đâu”.
Họ đưa tôi đến vùng quê ở Gam-linh-gay (Gamlingay), và dù tôi được đón tiếp nồng
hậu tôi vẫn không vui mấy. Tôi e ngại về việc sắp xảy ra này. tôi siết tay hai
vị chủ nhà của tôi là ông bà mục sư Pac-cơ (Parker).
Trải qua nhiều năm, mục sư Pac-cơ (Parker) đã dâng hiến đời mình cho Chúa Giê-xu và Ngài đã cho ông thấy, hiểu, thông cảm, biết được những nhu cầu của những người cô đơn và buồn bã trên đời này. Với tôi, chỉ có tình yêu mới có thể thu hút tôi lúc này, dù là mục sư, nhưng ông không đưa ra một lời dạy hay là khuyên nhủ tôi. Ông biết rằng đối với người như tôi thì ông cần lắng nghe hơn là dạy bảo. Chính điều này làm tôi ngạc nhiên không ít, vì mỗi tối ngồi lại trò chuyện trong gia đình hay quây quần nơi bàn ăn, tôi chẳng nghe ông dạy tôi điều gì cả, hoặc lời Kinh thánh hay lời khuyên nhủ. Sau mấy ngày sống tại đây, tôi cảm thấy khỏe hơn, tôi xin phép ông bà dắt con Pát-đi (Paddy) đi dạo quanh làng. Một khi ra khỏi nhà, tôi lại đốt từng điếu thuốc, càng đi lòng tôi càng nặng trĩu. Phong cảnh ở đây buồn quá. Tôi tự hỏi tại sao mình dại dột đến nơi như thế này. chẳng có lấy một cái quán nhỏ để ngồi tránh những cập mắt tò mò của mọi người. Tôi quyết định ở đây vài hôm rồi sẽ cáo lỗi ra về. Rồi những ngày kế tiếp, tôi lại dẫn con Pát-đi (Paddy) dạo quanh làng. Chúng tôi trở nên bạn rất thân. Tôi nói với Pát-đi (Paddy) những nỗi lo sợ của tôi. Con chó giương cặp mắt nâu to của nó nhìn tôi như thể thông cảm mọi nỗi niềm đau khổ trong tôi. Ký ức tôi quay về với những ngày còn thơ ấu: tôi cũng thường nói chuyện với con Bét-si (Bessie) như thế.
Tuần lễ thứ nhất trôi qua, tôi bắt đầu yêu thích gia đình này, thái độ tôi cũng thay đổi đối với ông bà Pac-cơ (Parker). Họ chấp nhận tôi như một người trong gia đình, không chút do dự, không một câu hỏi, không lời thắc mắc. Họ có hai con, một trai một gái, cả hai đều ở tuổi thành niên. Tình yêu đã gắn bó gia đình này với nhau, không phải bởi kỷ luật hay tôn giáo mà bởi tất cả họ đều yêu Chúa. Trong họ thật giản dị, ngọt ngào và tươi vui. Đây là lần đầu tiên tôi gặp một gia đình hạnh phúc. Điều này làm tôi để ý, suy nghĩ rồi đến chỗ thích được ở đây với họ. Dầu vậy thỉnh thoảng sự buồn chán lại vây quanh tôi, sự nghi ngờ và sợ hãi bám lấy tôi. Những giấc mơ cứ rình rập tôi mãi. Ban ngày tôi bần thần phản ứng chậm như rùa. Tôi hút thuốc vì là thói quen không bỏ được. Tuy biết cả, nhưng mục sư không nói gì, ông chỉ trình dâng cho Chúa là Đấng làm được mọi sự. Ông đợi thì giờ của Chúa, ông đợi bức tường sẽ đổ xuống. Họ lo lắng cho tôi rất nhiều, nhưng họ rất âm thầm.
Thế rồi một tối kia, thật là tuyệt diệu khi tôi dám mở miệng xin phép ông bà cho tôi được gọi là Ba má. -“Ồ, dĩ nhiên, con, Ba má rất vui lòng, chỉ ao ước chừng đó thôi!”. Rồi cả hai ôm choàng tôi, nước mắt họ tuôn trào. Thật họ khôn khéo và kiên nhẫn với tôi làm sao! Lời khẩn nguyện của họ đã được nhận.
Tôi trở nên thân mật và gần gũi với Ba má hơn. Tôi bắt đầu mở câu chuyện về cuộc đời tôi cho họ. Ba má không thúc đẩy tôi kể cho họ nghe, nhưng bây giờ tôi có thể tin tưởng rằng Ba má làm người có thể giúp đỡ và dạy dỗ tôi. Có lúc uế linh đến quấy phá tôi thì có Ba má giúp tôi chiến thắng nó. Ba má yêu tôi và hiểu tôi. Họ thường thay phiên nhau ngồi cạnh giường để canh giữ tôi ngày cũng như đêm, không dám rời xa tôi. Giê-xu đã thắng Sa-tan, Ngài đem tôi đến tự do thật. Tôi bắt đầu thuởng thức nếp sống Cơ-đốc nhân. Một lần nữa, Giê-xu là Đấng Toàn Thắng.
Sau lần ấy tôi lại được thấy Chúa Giê-xu lần nữa. Đôi tay Ngài đua ra phía tôi, đôi mắt Ngài chan chứa tình yêu, Ngài ôm tôi vào lòng rồi nhỏ nhẹ: “Con thuộc về Ta”. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng chính Giê-xu đã hiện ra với tôi. Ngài không bao giờ bỏ tôi, Ngài dẫn tôi qua mọi thử thách, buồn chán, cho đến một ngày kia tôi sẽ thấy Ngài mặt đối mặt trong cuộc sống vĩnh hằng.
Làng xóm mà lúc trước tôi cho là ẩm thấp, cằn cỗi, bây giờ đối với tôi trở nên hấp dẫn vô cùng. Tôi gọi là làng Bê-tha-ni để nhớ lại một làng nhỏ kia, ở bên ngoài thành Giêrusalem nơi có hai chị em Ma-ry, Ma-thê, và La-xa-rơ ở, nơi Chúa Giê-xu thường lui tính thăm viếng họ. Bây giờ tôi bắt đầu đọc quyển Kinh thánh của tôi. Mọi khi Kinh thánh đối với tôi là một điều gì trừu tượng, khó hiểu khó tin thì bây giờ trở nên rõ ràng và đầy ý nghĩa. Tôi dành hằng giờ để đọc những câu chuyện về Chúa Giê-xu; thế nào Ngài chữa bệnh cho kẻ đau thân thể lẫn linh hồn. Ngài sờ bệnh nhân, Ngài phán dạy quần chúng giống hệt như Ngài làm hôm nay. Ngài đã chẳng sờ đến tôi hoặc chẳng chữa lành bệnh cho tôi hay sao? Tôi thấy rung động, hồi hộp, sung sướng. Kinh thánh trở nên rất sống động. Quyển Thánh ca cô giáo trường Chúa nhật tặng cho tôi mà có lần tôi đã đem vào nhà tù, bây giờ trở nên quý giá cho tôi. Tôi ngồi xuống, đọc và hát những Thánh Ca ngọt ngào.
“Xin nói với tôi câu chuyện về Giê-xu, xin viết trong lòng tôi những lời ca ngọt ngào đó”. Vâng, những lời ca ấy rất có ý nghĩa với tôi. Ôi! Tôi yêu những lời ấy biết bao! Nhìn lại quá khứ, tôi hiểu rằng Giê-xu theo tôi suốt mọi chặng đường. Ngài nhìn tôi với đôi mắt âu yếm từ bao nhiêu năm qua. Ngài thấy tôi lúc tôi còn là cô gái ăn sương ngoài đường. Ngài nhìn thấy tôi lúc tôi còn ngồi trong đền thờ Sa-tan hay lúc tập dượt phù phép nơi bãi hoang. Ngài yêu tôi ngay cả lúc tôi phạm tội, lúc tôi ở dưới bóng ma của sự suy đồi nhất. Thật là tuyệt diệu! Con người như tôi mà Giê-xu vẫn yêu thương!
Tại Bê-tha-ni nầy, Giê-xu đã kéo tôi lại gần Ngài hơn, thay thế sự xấu xa trong lòng tôi bằng sự ngọt dịu của Ngài. Ngài rửa sạch lòng tôi, cất xa khỏi tôi sự đau đớn khốn nạn mà hàng mấy năm qua tôi đã chịu đựng. Tất cả tình yêu Giê-xu tuôn tràn qua căn nhà này. Ngài xua đuổi sự hãi hùng ra khỏi tôi, sáng tạo tôi thành một người mới trong Christ. Tất cả mọi sự đều đổi mới, tất cả, từ thể xác đến tinh thần. Thế giới trước mắt tôi bây giờ thật tuyệt đẹp. Tôi yêu tất cả mọi loài trên thế giới mà Chúa dựng nên, từ những con sư tử hùng dũng đến những con mèo ngoan hiền. Tôi đi dạo trên những cánh đồng hay khu rừng cạnh làng, lòng tôi luôn rộn rã những điệu nhạc ca ngợi Thượng Đế. Tôi nhảy, tôi hát, cảm tạ Giê-xu đã giải thoát tôi và Ngài có một chương trình cho đời sống tôi. Lần đầu tiên tôi biết thuởng thức những hoa dại ven đường hay những đám cỏ xanh bên đồng ruộng. Bầu trời đẹp muôn màu như có họa sĩ tô điểm cho nó. tất cả những cảnh trí này Thượng Đế đã trang bị cho tôi thuởng thức mà tôi dại dột đánh mất bao nhiêu năm qua. Bây giờ tôi nhìn thế giới với đôi mắt khác như có bài Thánh ca mà tôi chẳng bao giờ quên: “Không ai thuởng thức được công trình sáng tạo của Thượng Đế ngoài đôi mắt và tấm lòng Giê-xu ban cho ”. Lúc này bài hát ấy trở nên sống động với tôi biết bao! Những lời này không đủ diễn tả sự vui mừng vô bờ của tôi. Những lời này không đủ nói cho tôi biết Giê-xu đã yêu tôi thế nào, cũng không diễn tả đủ sự hiện diện cao quý của Ngài.
Trong lúc còn nghỉ tại Bê-tha-ni, một ngày kia, tôi thấy sự hiện diện của Chúa
rõ hơn hai lần trước. Ngài hiện ra mỗi lúc một gần tôi hơn, Ngài hiện ra bên cạnh
tôi. Tôi nghe tiếng phán êm dịu của Ngài thì thầm bên tai tôi “Con là một trinh
nữ trong sạch. Trước mặt Ta, con là Ma-ri Ma-đơ-len Mới của Ta”.
Ba đi vào phòng tôi, ông thấy nét rạng rỡ trên khuôn mặt tôi, ông cũng biết có sự hiện diện của Chúa Giê-xu rất rõ. Lúc ấy tôi không còn biết đến sự hiện diện của Ba, tôi chỉ biết sự hiện diện của Chúa và tiếng phán êm ái của Ngài mà thôi. Sau này, Ba thuật lại rằng chưa bao giờ Ba thấy sự hiện diện của Chúa như hôm đó. Tôi thắc mắc với Ba về điều Chúa Giê-xu nói đến tên một người mà tôi chưa bao giờ nghe: “Ma-ri Ma-đơ-len là ai vậy ba?”. Nước mắt từ từ lăn trên má, ông mở Kinh thánh ra chỉ cho tôi xem thể nào Chúa Giê-xu đã đuổi bảy quỷ dữ ra khỏi nàng. Ma-ri Ma-đơ-len cũng là một gái mãi dâm như tôi, một con người từng bị quỷ chiếm hữu như tôi; nhưng từ khi Chúa Giê-xu bước vào đời sống thì nàng được thay đổi hoàn toàn. Tôi chỉ biết khóc và khóc. O! Ma-ri yêu Ngài quá đỗi! Ngài tha thứ tất cả tội lỗi của nàng, Ngài đã đem nàng đến tự do thật. Bây giờ Chúa bảo tôi rằng tôi là Ma-ri Ma-đơ-len-Mới của Ngài. Thật tuyệt diệu đến nỗi không diễn tả được. Tôi giống Ma-ri Ma-đơ-len cũng là một gái mãi dâm, một người bị quỷ chiếm hữu, nhưng bây giờ Ngài đã giải phóng tôi. Giê-xu đã trở nên cần thiết cho tôi từng phút từng giây. “Một trinh nữ trong sạch trước mặt Ta ”, tôi vẫn khóc qua lời này. Ba mở Kinh thánh sách IICo 2Cr 11:2, Phao-lô viết cho Hội thánh Cô-rinh-tô “...bởi tôi đã gả anh em cho một chồng mà thôi, dâng anh em như trinh nữ trong sạch cho Chúa Cứu Thế”. Tôi sung sướng quá vì Giê-xu đã nói với tôi, vốn là một gái mãi dâm, một tên nghiện thuốc, một mụ phù thủy rằng tôi là “một trinh nữ trong sạch trước mặt Ngài”. Tôi càng yêu Giê-xu hơn. Làm thế nào có thể quên được câu nói đầy lòng vị tha dường ấy! Làm thế nào quên được lời nói ra từ chính miệng Cứu Chúa của tôi!
Chúa Giê-xu vẫn tiếp tục đổ phước của Ngài trên tôi. Mỗi sáng tôi được đầy dẫy Thánh Linh Ngài. Tôi ngợi khen, cảm tạ, phục vụ, yêu thương Ngài. Ngài là Chúa tôi, là Chúa tất cả. tôi càng vui hơn khi đọc đến câu chuyện của Chúa tôi khi Ngài đến bên giếng lúc ban trưa để gặp người đàn bà Sa-ma-ri xấu xa và Ngài đã ban cho nàng nước sống. Tôi càng ngày càng được lớn lên trong ân điển của Chúa Giê-xu. Tôi còn lưu lại làng Bê-tha-ni ít lâu nữa vì tại đây chính Chúa đã dạy dỗ tôi, chăm sóc tôi để hoàn thành mục đích của Ngài qua đời sống tôi. Ngài đã xác nhận tôi là con vị Vua là Đức Chúa Trời tôi. không, tôi không thể quên được làng Bê-tha-ni vì tại đó tình yêu đã thắng cùng sự vui mừng, bình an tràn đầy.
Một tối kia, một đống lửa lớn được đốt lên, tất cả áo đen cùng với thuốc hút, thuốc phiện và nhiều hình tượng, bùa phép khác được đem ra đốt. Một tối thật vui vẻ quanh đống lửa hồng, tôi cảm tạ ngợi khen những gì Giê-xu đã làm cho tôi. đối với độc giả, có lẽ điều này không quan trọng mấy, nhưng với tôi nó thật đầy ý nghĩa. Sa-tan cúi đầu nhục nhã nhưng các thiên thần hòa chung niềm vui với tôi, tôi chắc chắn như vậy.
Hạt kim cương chưa mài giũa
“Một chiến lợi phẩm của ân điển, một hạt
kim cương chưa mài giũa”. Đây là các danh từ mà các tín hữu đã đặt cho tôi. bây
giờ tôi rời làng Bê-tha-ni để trở lại Thành phố Bơ-rít-tôn (Bristol) và tôi bắt
đầu cuộc sống mới. Trong Mac Mc 16:1, 5 chép “Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin lành cho mọi người”.
Mệnh lệnh “Hãy đi”, trong đó gồm có cả tôi nữa. Tôi biết như vậy, Chúa Giê-xu đã
kêu gọi tôi, vâng, Ngài đã chọn tôi để làm công việc của Ngài trên thế gian
này. và bây giờ tôi đã đi vào con đường hẹp để phục vụ Chúa tôi... Thật khó cho
tôi vì không được huấn luyện ở một trường thần học nào, nhưng một điều tôi có
thể làm được là làm chứng những gì Ngài đã làm cho tôi. Chúa cho tôi biết xúc động
về những linh hồn hư mất, đặc biệt là các gái mãi dâm, các người nghiện. “Thưa
Cha, con đây, xin Chúa hãy sai con!”, đó là tiếng đáp lại của tôi. -“Hãy đi
theo Ngài”.
Tuy nhiên, các Cơ-đốc nhân lại chính là hòn đá ngăn trở tôi. những người này rất khó chấp nhận tôi, họ đã quen mắt với con người tôi ngày trước vì tôi ăn mặc khác, nói năng khác, hành động khác... Thật vậy, tôi đã được thay đổi thành người mới trong Christ. Dù vậy, có rất ít người cho rằng tôi là một Cơ-đốc nhân thật. Tôi không thể hiểu điều đó. Rất nhiều lần tôi thật đau đớn vì cớ sự không tin của họ, tôi đã âm thầm đổ không biết bao nhiêu nước mắt, không phải do những gì họ nói hay hành động nhưng bởi những cái nhìn nghi ngờ của họ. Sợ tôi, họ xua đuổi tôi. Thánh Phao-lô cũng có đồng một kinh nghiệm như thế. Quá khứ của ông còn rành rành trong đầu óc của họ để họ có thể chấp nhận được ông. Tôi thông cảm được thánh Phao-lô đã nghĩ gì. tuy nhiên, đến một lúc quá khứ của Phao-lô cũng mờ dần trong trí họ, thì họ biết ông là một sứ đồ chân thật, một con người đã được thay đổi. Và rồi cũng đến lúc các tín hữu thấy tôi là người tin Chúa Giê-xu thật và họ chấp nhận tôi. họ hiểu rằng tôi đã được thay đổi, tôi đã thoát khỏi xiềng xích của ma quỷ. Thế rồi họ gọi tôi là một chiến lợi phẩm của ân điển hay hạt kim cương chưa mài giũa. Vâng, hạt kim cương này đang còn gồ ghề lắm, cần phải mài giũa mới trở nên hữu dụng được.
Tôi trở lại những đường phố quen thuộc nhưng với một mục đích khác. Còn nơi nào tốt hơn để đem Tin lành cho những cô gái ngoài đường phố ấy? Các bạn cũ của tôi tưởng tôi khùng, họ nói “Nè, con Đai-ơ-na (Diana) tội nghiệp, nó đi giảng đạo giả tưởng!”. Tôi không để ý những gì họ phê phán, tôi cứ việc nói cho họ biết những gì Giê-xu đã làm cho tôi và Ngài cũng sẽ làm cho họ nếu họ chịu tiếp nhận Ngài.
-“Nè, Đai-ơ-na (Diana), tụi tao cho mầy ba tháng đó rồi mầy sẽ trở lại nghề với tụi tao thôi!”.
-“Con Đai-ơ-na (Diana) cũ đã chết rồi, các bạn chẳng còn thấy mặt nó nữa đâu!”, tôi trả lời họ. Ôi! Tôi yêu những con người như thế này làm sao! Rất nhiều lần tôi đứng bên vệ đường, tay ôm choàng vai họ, khóc cho họ và cuối cùng họ đã công nhận rằng tôi có một cái gì đó mà họ không có được, đó là hạnh phúc và sự bình an thật... Họ nói “Trông mầy khỏe và tươi hẳn ra”. Đúng vậy, tôi đang vui nhưng cũng đang khóc cho họ. Họ thường bảo “Tụi taop chẳng bao giờ có thể thay đổi được đâu, Đai-ơ-na (Diana)”. Tôi khóc sướt mướt vì tôi đã chẳng từng nói như vậy trước kia hay sao? Tôi thường bảo họ “Nếu bạn để Giê-xu ngự vào đời sống bạn thì Ngài sẽ làm điều đó cho bạn”. Họ thường trả lời vắn tắt với tôi “Ừ, có lẽ tụi tao sẽ nghĩ về điều đó khi nào tụi tao già kìa, chứ bây giờ thì không”, rồi vội vã bước đi. tôi tiếp tục công việc như thế trong mấy năm tiếp theo vì nếu có người nào đó có thể nghĩ gì về một cô gái mãi dâm thì còn ai rõ hơn tôi nữa? Tôi thường ra phố mỗi đêm và ở đó rất khuya để có thể gặp họ, tôi biết rõ họ ở đâu đặng tìm đến. Tôi đã nghe một cô gái nói “Xem kìa, Đai-ơ-na (Diana) đến với Giê-xu của nó đấy”.
Có lần Giê-xu đã thì thầm bên tai tôi rằng “Con sẽ đi đến những đường phố với một đôi giày khác biệt”, giọng Ngài rất trong sáng và ngọt ngào. Lúc đó tôi không biết Chúa ngụ ý gì khi Ngài phán với tôi câu đó, bây giờ thì tôi hiểu Ngài muốn nói gì rồi. Tôi đang đi trên những đường phố với đôi giày mới, đó là giày Tin lành. Bước chân tôi được bảo vệ bình an.
Một lần kia, trong lúc tôi vẫn đi làm chứng như thường lệ, lần này tại một câu lạc bộ, nơi mà trước kia tôi vẫn thường lui tới vì nghề nghiệp, tôi đang nói chuyện với một người đàn ông về tình yêu của Chúa Giê-xu. Hầu hết những người trong quán rượu này đều biết mặt tôi và họ đều nhận thấy sự khác biệt của tôi bây giờ. Người đàn ông nói với tôi “Nè, Đai-ơ-na (Diana), đừng để ý đến những điều đó nữa, hãy uống một cốc đi, rồi cô sẽ quên mọi chuyện trong chốc lát mà”. Tôi trả lời “Không, tôi không thể nào quên được Giê-xu của tôi dù chỉ một giây”. Đôi lúc tôi ngồi yên lặng theo sự dẫn dắt của Thánh Linh, đôi khi tôi hát “Biến đổi hết mọi điều, tâm hồn nay được trắng trong, khi tôi dâng lòng mình tiếp Giê-xu... ”. Mọi người chăm chú nghe. Thật là tuyệt diệu, hồi hộp, khi hát ca ngợi Giê-xu trong một quán rượu. Ra khỏi quán rượu, tôi dựa vào tường, lòng tràn ngập vui mừng, mắt tôi ngấn lệ, đăm đăm nhìn về phía ánh đèn màu lờ mờ đó và ước mơ có một linh hồn bắt được ánh sáng của Giê-xu. Có một hôm, tôi gặp một người đàn bà đứng tuổi ngồi trong góc tại một quán rượu khác, bà thường ngồi một mình như vậy. Trong bà cô đơn và buồn, tôi tặng bà một cuốn sách nhỏ rồi ngồi xuống trò chuyện với bà. Nước mắt bà bắt đầu lăn trên gò má nhăn nheo. Bà thều thào: “Tôi vào đây đã gần mười năm rồi nhưng không người nào nói chuyện với tôi cả, không ai cả”. Tim tôi đập mạnh. Tôi nói “Chúa Giê-xu yêu bà, Ngài đã chết thay cho bà, không ai để ý đến bà, nhưng có Giê-xu, Ngài rất lo lắng cho bà”. Tôi tiếp “Bà cho phép tôi đưa bà về nhà được không?”. Bà mừng rỡ “Được, cô ở lại uống nước với tôi nhé!”. Tôi đưa bà về nhà ở gần đó, tên bà là Ve-ra (Vera), 63 tuổi. Sau chén trà nóng, tôi bắt đầu làm chứng cho bà về mọi điều Chúa Giê-xu đã làm cho tôi, bà rất cảm động. Mở Kinh thánh ra, tôi chỉ cho bà con đường đến sự cứu rỗi, bình an và yên nghỉ. Rồi hai chúng tôi cùng quỳ gối xuống, bà vui mừng mời Chúa Giê-xu ngự vào lòng. Thật là tuyệt diệu không gì so sánh được!
Sau đó vài ngày tôi trở lại thăm bà, mặt bà rạng rỡ “Tôi sẽ không bao giờ trở lại quán rượu nữa, thay vào đó tôi tìm nguồn an ủi trong Kinh thánh. Bây giờ tôi đang sẵn sàng để gặp Chúa tôi”. Thật vậy, Ve-ra (Vera) chẳng bao giờ trở lại quán rượu nữa và bà đã thật sự gặp Cứu Chúa của bà một tuần lễ sau đó. Các người hàng xóm nói lại rằng bà chết rất bình an, giống như ngủ vậy. Ve-ra (Vera) đã đi với Cứu Chúa của bà, một ngày kia tôi lại sẽ gặp bà.
Một buổi tối kia, tôi cũng đi trên con đường quen thuộc (đó là những con đường đầy tội lỗi), một người đàn ông dừng xe lại và muốn nói chuyện với tôi, ông là một khách quen của tôi ngày trước: “Chào cô Đai-ơ-na (Diana), cô vẫn bình an trong nghề đấy chứ?”. “Vâng, nhưng không phải trong công việc như ông tưởng đâu, tôi đang làm việc cho hoàng đế của tôi. đây là một truyền đạo đơn, xin ông hãy đọc về Vua Giê-xu của tôi”. Ông ta sửng sốt chạy lại phía xe của ông rồi mất hút. Mặc dầu đêm đó tôi còn gặp ông nhiều lần, nhưng ông chẳng nói với tôi lời nào nữa. Còn tôi, tôi cầu nguyện cho ông để ông có thể gặp được Chúa Giê-xu.
Một tối khác, tôi vào quán rượu để phát sách Tin lành. Tôi gặp một khách hàng cũ khác của tôi. tôi nói cho ông ấy biết thế nào Chúa Giê-xu đã thay đổi cuộc đời tôi. gương mặt ông đỏ lên, tay ông run đến nỗi không giữ được đôi kính trong tay ông, thình lình ông vụt chạy ra khỏi quán rượu, bỏ lại chai bia còn dở dang trên bàn. Thường tôi vào một quán rượu để phát sách, làm chứng xong tôi đến một quán rượu khác, vì vậy, tôi lại gặp người đàn ông lúc nãy, vừa thấy tôi, ông ta vội cút ra khỏi quán rượu đó, bỏ ly bia lại trên bàn... Ông ấy nói “Có phải cô theo dõi tôi không? Sao tôi ở đâu thì cũng có mặt cô ở đó?”. Tôi trả lời “Không phải tôi theo dõi ông mà là Chúa Giê-xu đó, Ngài muốn ông dâng lòng mình cho Ngài”. Nói rồi ông ta vội đi ra lần này ông ta lấn người khác, đạp đổ tung bàn. Lạ thật, tối đó ông ấy chẳng dùng được tí bia nào. Tôi cầu nguyện cho ông ta có được sự an nghỉ mà Giê-xu hứa ban cho kẻ nào tìm kiếm Ngài. Tôi cứ tiếp tục dạo trên đường, gặp những cô gái ăn sương, bảo cho họ biết về Chúa Giê-xu, Ngài cứu tất cả mọi người. Tôi thích nhất chữ mỗi người ở mọi nơi không trở ngại chi cả, dù bạn là ai. Sa-tan cũng theo tôi riết, chúng cố thuyết phục và dụ dỗ tôi: “Hãy lại và nhậu một chút, chỉ một ít thôi, ở đây không ai thấy đâu”. Tôi nhớ lại lời Kinh thánh chép “Hãy chống cự ma quỷ thì nó sẽ lánh xa anh em”. Tôi tuyên bố với Sa-tan trong danh Chúa Giê-xu: “Hãy lui ra khỏi ta” và rồi nó lìa khỏi tôi. sang ngày khác, Sa-tan lại tiếp tục mưu đồ của nó “Không ai tin mầy đâu, ngay cả những Cơ-đốc nhân. Mầy chỉ phí thì giờ vô ích, hãy ăn, hãy uống, vào quán rượu nghỉ một chút cho khỏe đi”. Trong danh Chúa Giê-xu tôi lại bảo Sa-tan hãy lui ra. xong, tôi gọi điện thoại cho Ba ở Bê-tha-ni. Ba biết được tôi đang bị cám dỗ và gặp rắc rối, Ba cầu nguyện cho tôi qua điện thoại, ông bảo Sa-tan phải lui ra khỏi tôi trong danh Chúa Giê-xu.
Rồi Ba bảo tiếp “Con hãy trở về nhà liền và
trong lúc đi ngang qua các cửa quán rượu, con hãy giơ tay ra và nắm lấy Chúa
Giê-xu trong đức tin, Ngài chắc sẽ dẫn con về nhà bình yên”. Tôi nghe lời ba,
trong lúc đi qua trước các quán rượu, Sa-tan lại cố thuyết phục tôi vào trong uống
rượu thay vì đi làm chứng. Tôi giơ tay thẳng lên trời trong đức tin, miệng thì
thầm “Lạy Chúa Giê-xu, xin nắm lấy tay con trong tay Ngài, xin giữ con khỏi mọi
điều ác...” Lạ thay, tôi chẳng thấy còn thèm muốn chút nào trước sự quyến dụ của
Sa-tan. Đây là một quang cảnh kỳ lạ cho khách đi đường, khi thấy một người đi bộ,
tay giơ thẳng lên trời. Còn đối với tôi, kỳ hay không chẳng nghĩa lý gì, chỉ biết
là Sa-tan một lần nữa thất bại và Giê-xu là Đấng chiến thắng. Tay Ngài đã dìu dắt
tôi, giữ tôi khỏi mọi điều ác.
Sa-tan lại cố cám dỗ tôi bằng cách khác, nó không muốn tôi phục vụ Chúa Giê-xu. Các phù thủy đen viết thư cho tôi, dọa sẽ giết tôi nếu tôi không chịu để cho họ yên. Những lời độc ác của họ như sau “Mày sẽ chết, nếu mày còn phanh phui nghề của chúng tao”. Có vài bức thư viết bằng máu của họ.
Thoạt tiên, chúng làm tôi sợ, nhưng tôi sẽ làm gì bây giờ? Tôi sẽ im lặng để Sa-tan muốn làm gì thì làm sao? Tôi sẽ không nói cho người ta biết sự nguy hiểm của phù phép mà tôi đã từng bị mắc bẫy sao? Không, chẳng bao giờ! Tôi sẽ tiếp tục cảnh báo mọi người. Những bức thư đó chỉ cho thấy sự độc ác của Sa-tan mà thôi. Tôi tin lời Chúa, trong sách RoRm 8:38-39, Kinh thánh chép: “Tôi biết chắc chắn không một điều nào có thể ngăn cách chúng ta với tình yêu thương của Thượng Đế. Dù cái chết hay cuộc sống, dù thiên sứ hay ác quỷ, dù tình hình hiện tại hay biến chuyển tương lai, dù quyền lực uy vũ, dù trời cao vực thẳm, dù bất cứ vật gì trong vũ trụ _cũng chẳng bao giờ phân cách nổi chúng ta với tình yêu thương của Thượng Đế đã thể hiện nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta ”. Tôi thêm vào “Dù phù thủy hay Sa-tan”. Không, không, không có điều gì có thể phân rẽ tôi khỏi Giê-xu và lẽ thật. Giê-xu của tôi mạnh hơn phù thủy và Sa-tan. Chính Giê-xu thay tôi đối phó với Sa-tan, không ai hại tôi được. Tay Ngài bảo vệ tôi từng giờ. Quý vị thấy đó, tôi đã run sợ lúc bắt đầu công việc của Ngài, nhưng Chúa đã dạy tôi phải tin cậy nơi Ngài bất chấp điều gì xảy đến cho tôi, dù lớn hoặc nhỏ. Giê-xu đang bảo vệ tôi vì Ngài đã giải phóng tôi, nên Ngài chẳng bao giờ lìa bỏ tôi. Làm sao tôi có thể làm thinh được trước tội lỗi và sự độc ác của phù phép được. Phải có người nào đó cảnh báo người ta chứ, nhưng ai là người thích hợp hơn tôi? Ngay khi bắt đầu công việc, Ngài đã chuẩn bị tôi cho những việc lớn hơn. Hằng ngày tôi cứ mạnh mẽ hơn trong đức tin và công việc của tôi cũng phát triển hơn. Công việc tiếp theo là tôi làm chứng trong các buổi họp của phụ nữ. Giọng nói của tôi quê mùa thường khiến thính giả cười, thỉnh thoảng, tôi nói như tiếng gà trống gáy. Nhưng không sao, điều này lại làm cho lời chứng của tôi thêm tự nhiên.
Từng chút một, từ chỗ thấp bé ít ỏi, con đường mở rộng cho tôi: Càng ngày người ta càng mời tôi đến nói chuyện ở các nhà thờ, nhà nguyện, trường học, câu-lạc-bộ, phòng trà... Thật hồi hộp khi làm chứng cho Chúa Giê-xu trước đám đông người. Càng sung sướng hơn nữa khi thấy rất nhiều đàn ông, đàn bà, cả trẻ lẫn già, muốn đầu phục Đấng Christ và dâng đời sống họ cho Ngài. Trong lúc càng mạnh mẽ hơn trong Chúa, tôi nhớ lại “Hạt kim cương chưa mài giũa”. Bây giờ tôi hiểu câu nói ấy có một ý nghĩa khác sâu xa hơn. Ay không phải là tôi hiểu gì nhiều về kim cương đâu, tôi chỉ hiểu đơn sơ rằng kim cương được tìm thấy trong những vùng đất đá nóng nhất, tối tăm nhất, và khi kim cương mới được tìm thấy thì chúng không chiếu sáng long lanh nhưng rất thô kệch, rất gồ ghề cho đến khi nào chúng ở trong tay người thợ kim hoàn, được mài giũa khéo léo, sau đó mới trở nên tuyệt hảo và kết quả cuối cùng là chúng trở nên món trang sức quý giá.
Tôi chẳng phải là hạt kim cương được lấy trong vùng đất tối tăm bẩn thỉu, được giao cho Bàn Tay Đại Năng mài giũa để trở nên quý giá trước mặt Ngài hay sao? Bây giờ tôi cũng đang được Bàn Tay Tuyệt Xảo ấy uốn nắn. Ngài đang làm thành công việc của Ngài trên hạt kim cương gồ ghề thô kệch này.
Một công cuộc truyền giáo sâu nhiệm hơn
Kinh thánh chép: “Ta để trước mặt ngươi một
cái cửa mà không ai có thể đóng lại được”. Có rất nhiều cửa mở ra cho tôi để truyền
giảng Tin lành và làm chứng thế nào Ngài đã giải thoát đời sống hư hoại của
tôi. Thật vinh dự cho tôi khi được làm chứng trước đám đông, trong chiến dịch
truyền giảng Tin lành của Tiến sĩ Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings). Buổi đầu
tiên tôi làm chứng tại Rít (Reeds) với ca sĩ Giôn Gờ-ran (John Grant). Tôi run
sợ nhưng Chúa Giê-xu đã giúp tôi và buổi truyền giảng đó rất được phước. Thật
là kỳ diệu khi nhớ lại cũng một đêm Tháng Sáu năm 1964, khi tôi đã chuẩn bị dao
để sẵn sàng đâm Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings), nếu lúc đó có ai bảo rằng sẽ
có ngày tôi đứng bên cạnh Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) để làm chứng về việc
Chúa giải cứu tôi, chắc chắn tôi đã cười nhạo vào mặt họ. Nhưng bây giờ sự thật
là tôi đang đứng cùng với Ê-rích Hớt-chinh (Eric Hutchings) trên bục giảng, nói
cho thính giả biết rằng có một buổi tối tôi đã đầu phục Đấng Christ và dâng
lòng tôi cho Chúa Giê-xu. Đó là lần đầu tiên khởi sự cho công cuộc truyền giảng
của tôi, nhưng tôi chẳng bao giờ quên đêm đó. Khán giả không đông lắm. Trong
lúc tôi nói thể nào con người của tôi đã để cho ma quỷ làm chủ thì mọi người đều
trố mắt nhìn tôi, một con người có một quá khứ chồng chất biết bao tội lỗi. Quí
độc giả thử tưởng tượng, tôi đã hồi hộp biết chừng nào khi đứng bên cạnh nữ ca
sĩ Bét-ti Lu-miêu (Betty Lou-Mills) trong lúc nàng hát đi hát lại bản Thánh Ca
yêu thương, ngọt dịu mà năm xưa đã cảm động lòng tôi! Nữ ca sĩ Lu-miêu
(Lou-Mills) đã dâng giọng ca mình cho Chúa Giê-xu đi truyền giảng Tin Lành.
Nàng rất dịu hiền, nàng đã gây được cảm tình nơi tôi và rất nhiều khán giả
khác.
Trong lúc giảng Tin Lành ở nơi công cộng, tôi cũng không bỏ qua việc đến các đường phố lớn, nhỏ để truyền bá danh Giê-xu cho mọi người, là Đấng cất đi bao nhiêu nan đề trong đời sống. Tôi làm như vậy ở nhiều nơi, đặc biệt là tại Luân-đôn (London). Trở lại những con đường quen thuộc tại khu Xô-hô (Soho), lòng tôi đau như cắt bởi những linh hồn đang hư mất. Tôi cũng trở lại các phòng trà, quán rượu với nét mặt bình an, hy vọng, vui vẻ mà thế gian này chẳng bao giờ đem lại cho chúng ta được.
Có một lần tôi đi thăm khu vực phía đông Luân-đôn (London) gần nơi chôn nhau cắt
rốn của tôi. một buổi tối kia ở Bờ-rít-tân (Bristol), Chúa đã sai tôi một mệnh
lệnh rất đặc biệt: “Đến nhà số 50... và tìm Ê-vơ-linh (Evelyn)”. Tôi biết giọng
của Chúa tôi và sứ điệp của Ngài rất rõ ràng. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghe nói
tới đường... và cũng chẳng biết Ê-vơ-linh (Evelyn) là ai. Nhưng nếu Chúa đã bảo
tôi đi thì tôi còn lo ngại gì các chi tiết khác? Tôi lên tàu hỏa, cầu nguyện suốt
đường đi để Giê-xu dẫn dắt tôi biết nơi nào và tôi sẽ nói những gì khi tôi gặp
Ê-vơ-linh (Evelyn). Không cần nói quý vị cũng biết rằng sống lâu năm ở Thành phố
Luân-đôn (London)thì cũng không mấy người biết được nhiều đường để chỉ dẫn cho
mình. Cuối cùng tôi liên lạc với vị mục sư sở tại và nói cho ông biết công việc
của tôi. hai vị mục sư rất ngạc nhiên khi họ dẫn tôi đến đường..., con đường chẳng
đẹp đẽ gì, vừa đầy ổ gà lại bẩn thỉu lắm. Ở cuối con đường là nhà số 50. Một người
đàn bà mập phệ đang tựa mình trên khung cửa sổ nhớp nhúa, thân bà che gần khuất
cái cửa, tay bà đang cầm một cốc rượu, môi phì phà thuốc lá. Sau khi thầm nguyện
trong lòng, tôi bắt đầu nói chuyện với bà.
_“Chào bà ạ, tôi là Đo-rinh (Doreen). Tôi đã đi khá xa từ Bờ-rít-tôn (Bristol) tới đây để nói với bà một chuyện cần thiết”.
_“Ừ”, bà chỉ đáp lại có thế và cứ để mặc chúng tôi đứng ngoài đường. Tôi tiếp tục:
_“Vâng, Chúa Giê-xu có một sứ điệp đặc biệt cho bà”
_“Ừ”, bà đáp như chẳng nghe vừa rồi tôi nói gì cả. Tôi thêm:
_“Ồ, bà ơi, tôi nói thật đấy. Tôi chợt nhớ ra Chúa bảo tôi hãy tìm Ê-vơ-linh (Evelyn). Tôi nói là gì “Cảm ơn Chúa”, rồi hỏi bà:
_“Có ai tên Ê-vơ-linh (Evelyn) ở đây không ạ?”.
_“Vâng, đó là con gái tôi”, người đàn bà trở nên vui vẻ hẳn, “cô muốn nói chuyện với nó hả? Xin mời vô”.
Chúng tôi bước vào nhà, bên trong thật tồi tệ. Tường ván ẩm thấp, mục nát cả. “Đây là chỗ heo ở mới đúng”, người đàn bà nói. Tôi cũng ngầm đồng ý với bà như vậy. Bà tiếp “Đây cũng là chỗ của lũ chuột” và rồi tôi thấy một con chuột chạy ngang. Bà chỉ cho tôi một cái phòng bên trong, cũng chẳng khá gì hơn, nhưng trên bàn có một chai rượu đắt tiền nhất mà tôi từng thấy. Một cô gái khoảng mười tám tuổi đang nằm trên cái giường rách nát. Tôi nhẹ nhàng hỏi: “Có phải Ê-vơ-linh (Evelyn) đó không bà?”. “Không, đó là Giên (Jane), Ê-vơ-linh (Evelyn)đang ở trên gác”. Tôi từ từ giải thích cho bà biết tại sao tôi đến đây, rồi tôi nói một ít về đời sống tôi, thể nào Chúa Giê-xu đã cứu vớt tôi từ một cô gái mãi dâm và biến đổi tôi được như bây giờ. Nước mắt từ từ lăn trên đôi gò má của bà. Bà nói: “Tôi đã xử tệ với mấy đứa con tôi, tôi là một người nghiện, những con tôi là gái mãi dâm và Ê-vơ-linh (Evelyn) còn nghiện á phiện nữa”. Bây giờ hai vị mục sư và tôi cũng khóc. Chúng tôi thấy thế nào Sa-tan đã gài bẫy gia đình này.
Sau khi đã nói cho bà biết thế nào Chúa Giê-xu đã chịu chết và đã sống lại để bà có thể sống và đến nơi chân thập tự mà Giê-xu đã đổ huyết ra vì cớ tội lỗi của bà thì bà bằng lòng ăn năn tội và dâng đời sống mình cho Chúa Cứu Thế. Chính lúc đó, bà quì gối với chúng tôi, xin tiếp nhận Giê-xu làm Cứu và Chúa của bà. Giên (Jane) vẫn nằm đó, nàng rất vui khi nghe đầu đuôi câu chuyện nhưng chưa tiếp nhận Giê-xu. Rồi bà gọi đứa con gái tên Ê-vơ-linh (Evelyn) và cho nàng biết mọi việc vừa xảy ra tại đó. Bà hỏi: “Ê-vơ-linh (Evelyn) nè, con cũng mời Giê-xu ngự vào lòng con đi”. Thật là tuyệt diệu khi nghe một người vừa tiếp nhận Chúa làm chứng như vậy. Tuy nhiên, Ê-vơ-linh (Evelyn) đã không sẵn sàng và nàng lại trở lên gác. Lòng tôi như theo đuổi nàng... chúng tôi trao phó gia đình này trong tay Chúa và cho họ một cuốn Kinh thánh cũng với một ít truyền đạo đơn trước khi từ giả. Về sau, chúng tôi nghe nói Giên (Jane) bị đi tù. Vị mục sư đã kêu gọi nàng dâng lòng mình cho Chúa Giê-xu và nàng đã tiếp nhận Ngài khi còn ở trong tù. Riêng người Mẹ có viết thư cho chúng tôi biết chồng bà đã trở về khi thấy cuộc sống của bà đã được thay đổi. Sau khi gia đình này đã được đoàn tụ thì chúng tôi mất liên lạc, nhưng tôi tin rằng Chúa Giê-xu đã làm thành công việc của Ngài trên gia đình này và chắc chắn Ngài cũng sẽ đưa tay Ngài ra để dẫn dắt họ. Còn Ê-vơ-linh (Evelyn) có tiếp nhận Chúa hay không thì tôi không biết, chỉ có một điều là Giê-xu đã sai tôi đi và tôi đã làm xong nhiệm vụ. Việc còn lại tôi giao trong tay Ngài. Điều quan trọng ở đây là chúng ta có sẵn sàng vâng theo mệnh lệnh của Ngài hay không mà thôi.
Với Giê-xu thì không có việc chi là không thể được, không việc gì là khó cho Ngài. Ngài là Đấng hôm qua, ngày nay, ngày mai và cho đến đời đời không hề thay đổi như Kinh thánh đã chép. Công việc của tôi còn tiến xa hơn với kinh nghiệm tại đường... Tôi có dịp nói chuyện với sinh viên Trường Sư Phạm ở đường Bờ-rai-tân (Brighton). Sau khi xong lời làm chứng, tôi để thì giờ cho các sinh viên đặt câu hỏi. Chỉ với sự giúp đỡ của Chúa, tôi mới có thể giải đáp thỏa đáng được các câu hỏi của sinh viên. Chúa Giê-xu đã dạy tôi phải trả lời thế nào và tất cả sự vinh hiển đều thuộc về Ngài. Tôi ngợi khen Ngài không thôi. Các sinh viên thích biết những điều mới lạ, họ thích nghe những điều về ma quái, phù phép và thế giới huyền bí. Chính vì thế nên tôi rất cẩn thận trong lời làm chứng. Vì nếu có ai đó chỉ hiểu lầm một chút cũng là một mối nguy hại lắm rồi.
Lần đầu tiên xuất hiện trên truyền hình cũng là một kinh nghiệm khó quên đối với tôi. trong chương trình hằng ngày của Đài Truyền Hình Phía Nam, tôi đã có dịp nói chuyện với hàng ngàn thính giả. Lời cầu xin của tôi là danh Chúa được vinh hiển khắp nơi. Làm thế nào một gái mãi dâm, một con nghiện, một mụ phù thủy có thể trở thành một nhà truyền giáo? Đó là câu hỏi của nhiều khán thính giả. Câu trả lời của tôi là: Một người như vậy không thể làm gì được cho đến khi nào bằng lòng giao phó đời sống trong tay Chúa Giê-xu để Ngài biến đổi. Tôi không thể biến đổi tôi được, nhưng bây giờ tôi là một thọ tạo mới trong Chúa Giê-xu vì chính Ngài đã biến đổi tôi.
Tôi cứ tiếp tục công việc của Chúa như thế tại các đường phố hay qua các đài truyền thanh, truyền hình. Một hôm, lúc đang tham gia trong đoàn truyền giáo tại Ca-rô-đíp (Carodiffs), sau đêm tại đó, tôi thấy mắt cá chân tôi bị sưng tấy. Tôi tin chắc rằng Sa-tan đang tìm cách ngăn trở tôi, tuy nhiên, Chúa lại đổi tai nạn này trở nên tốt đẹp. Tại bệnh viện Ca-rô-đíp (Carodiffs), tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng các bệnh nhân tại đây nhớ mặt tôi trên truyền hình tối hôm qua, còn tôi thì vì đau quá nên tôi quên hết những gì tôi đã làm tối hôm qua. Cả các y tá, các sinh viên cũng không quên tôi. thế là tôi có dịp thuận lợi nói về Giê-xu cho họ. Tất cả mọi người trong bệnh viện, kể cả các bệnh nhân, lại một lần nữa được nghe về Cứu Chúa. Các bác sĩ trong lúc mổ chân cho tôi rất ngạc nhiên khi nghe nói thế nào Giê-xu đã thay đổi đời sống tôi. một bác sĩ nói: “Không một thứ thuốc nào chữa cho bệnh nghiện cỡ như cô được, cô đang sống bởi một phép lạ”. Một bác sĩ khác nói trong lúc đang xem phim X_quang hình chân tôi “Này cô truyền giáo, cô không truyền đạo được trong một thời gian, cô không thể đi được, phải đợi cho lành hẵn đã”. Tôi mỉm cười khi nghe ông ta nói thế vì tôi đang giảng Tin lành ngay trên xe lăn tay mà tôi đang ngồi đấy chứ. Tôi lại được một bác sĩ là tín đồ tốt đưa tôi về nhà ông ấy. Tại đây tôi đã thực hiện chương trình truyền giáo qua máy thâu băng. Lại một lần nữa, danh Chúa được vinh hiển. Sau đó mắt cá chân tôi được lành và tôi trở lại Ca-rô-đíp (Carodiffs). Tôi không biết được kết quả vĩ đại mà Chúa đã làm qua tôi trên chương trình truyền hình vừa qua.
Một hôm, tôi được mời làm chứng tại một nhà thờ lớn ở Ca-rô-đíp (Carodiffs). Gần hết bài giảng thì có một tiếng từ giữa hội chúng: “Chúa Giê-xu có thể làm mọi sự cho tôi không ạ?”. Tôi trả lời: “Vâng, Giê-xu có thể làm mọi sự, không có việc chi khó cho Ngài cả. hãy tiến đến phía trước, tôi sẽ cầu nguyện cho bạn”. Tức thì một chàng trai ăn mặc lòe loẹt tiến đến. Chàng quì xuống và tôi đem chàng trai trẻ này đến với Cứu Chúa. Sau đó chàng kể tôi nghe câu chuyện đời chàng. Tên chàng là Sa-mu-ên (Samuel), một người tù vừa mới được trả tự do. chàng nói: “Lúc còn ở trong tù, tôi thấy cô trên truyền hình, tôi lắng nghe tất cả những gì cô nói và khi về lại phòng giam, tôi nói ‘Ôi Lạy Chúa, nếu quả thật Ngài đang hiện hữu, xin cho con gặp người đàn bà đó’. Thế rồi khi ra khỏi tù tôi gặp cô thật. Đời tôi là một đời tội lỗi, bịp bợm; còn cô, cô có cái gì mà tôi không có, nhưng bây giờ tôi biết tội lỗi tôi đã được Ngài rửa sạch rồi”. Còn gì sung sướng hơn khi thấy đời sống của Sa-mu-ên (Samuel) được Chúa Giê-xu thay đổi! Bây giờ Sa-mu-ên (Samuel) là một tín đồ rất tốt, chàng luôn làm chứng về Chúa Giê-xu. Chàng đến thăm tôi vài tháng trước đây. Gương mặt chàng chiếu rạng vinh quang của Chúa, môi miệng chàng luôn ca ngợi Chúa. Lời cầu nguyện của chàng thật cảm động. Sa-mu-ên (Samuel) là một chiến lợi phẩm của ân điển, chàng làm chứng tại nhà thờ và rao giảng Tin lành ở ngoài đường phố. Sa-mu-ên (Samuel) là nguồn phước lớn.
Còn phần tôi, càng ngày càng lớn lên trong sự hiểu biết Cứu Chúa. Tôi dự những
chương trình lớn hơn. Vì trên thế gian này còn có nhiều người đang đau khổ, cô
dơn, chán nản, vô hy vọng và tôi từng có kinh nghiệm đó, nên tôi có sứ điệp đặc
biệt cho họ. Sứ điệp mà tôi thường nói với mọi người rất đơn giản “Có một Người
rất lưu tâm đến bạn và hiểu bạn, tên Những người đó là Giê-xu. Người đã nói: ‘Hỡi
những kẻ mệt mỏi...”. Tôi chứng minh cho mọi người thấy Người là Sự Sáng, Tình
Yêu. Là Nơi An Nghỉ. Ngài là Bạn Thật... và Ngài đã chết trên cây gỗ để mọi người
ở mọi nơi được hưởng sự vui mừng...”.
Tôi cũng rất vui khi nói với Ba tôi về sự cứu rỗi, về thể nào Giê-xu đã thay đổi cuộc đời tôi. Ông bảo rằng ông rất hãnh diện về tôi. Tuy nhiên, ông vẫn chưa tiếp nhận Chúa Giê-xu, tôi đang cầu nguyện cho ông. Tôi chưa tìm thấy Mẹ tôi kể từ ngày bà rời nhà ra đi lúc tôi mười một tuổi. Tôi đã không thể tìm thấy bà nhưng tôi tin rằng một ngày kia tôi sẽ gặp bà. Chúa Giê-xu biết bà đang ở đâu, và tôi sẽ gặp Mẹ tôi sớm hơn tôi tưởng. Còn bốn em tôi, tôi đã gặp được hai người. Họ đều mạnh khoẻ. Một đã có gia đình với hai con. Hai em tôi cũng biết Chúa Giê-xu đã thay đổi đời sống chị của chúng ra sao. Tôi tin rằng sự cầu nguyện thay đổi mọi sự, vì đời sống tôi đã chứng minh điều đó. Tôi luôn luôn cầu nguyện cho cha và em tôi. Chúa đang làm việc theo mục đích của Ngài. Tôi giao mọi sự trong tay Ngài, là Đấng biết mọi sự từ buổi ban đầu.
Tôi chưa nhắc đến chồng tôi là Đa-vít (David), vì đó là chuyện riêng của tôi. tôi đã kết hôn với một Cơ-đốc nhân tốt, luôn đứng cạnh tôi,giúp đỡ tôi và hướng dẫn tôi trong công tác phục vụ Chúa. Đa-vít (David) là người cầu nguyện trong khi tôi rao giảng. Cả hai chúng tôi biết rằng cuộc đời chúng tôi đều dâng trọn cho Chúa, không có một khó khăn nào gây trở ngại chúng tôi hầu việc Chúa.c rất nhiều người đến gặp chúng tôi tại nhà. Người thì cần chúng tôi giúp đỡ trên bước đường theo Chúa; người thì cần được khích lệ; người thì cần thoát khỏi xiềng xích của tà ma là chủ của sự tối tăm. Chúng tôi thật hết sức vui mừng khi những linh hồn đó được phước của Chúa tại căn nhà nhỏ hẹp của chúng tôi. chúng tôi biết rằng sự cầu nguyện thay đổi mọi sự và rằng Giê-xu thỏa mãn mọi nhu cầu của mọi người, không cứ việc đó lớn hay nhỏ. Chồng tôi là một Cơ-đốc nhân phục vụ Chúa đắc lực trong hậu trường. Tôi cảm tạ Chúa vì sự giúp đỡ dìu dắt của chồng tôi.
Sự giàu có tâm linh
Các phù phép, các bùa ngải có hại gì không? Một ký giả hỏi tôi như vậy. Vâng, nó rất tai hại ở bất cứ hình thức nào, dù thật đơn sơ như coi chỉ tay chẳng hạn. Đó là những thứ tai hại cần được cảnh cáo vì đã dưa rất nhiều đàn ông, đàn bà đến nhốt ở nhà thương điên, khiến họ sợ hãi, tự tử và đi xuống địa ngục. Chúng ta phải đối đầu với sự thật. Các phù phép đã lan rộng trên thế giới như là bệnh ung thư nguy hiểm. Tôi không thể kết luận cuốn hồi ký này mà không nói lên những lời cảnh cáo đối với giới thanh niên đã đùa giỡn với ma quỷ là chủ quyền của sự tối tăm. Chúng ta phải nhắc nhở họ rằng “Các thanh niên, đừng đùa giỡn như thế!”.
Loài người có thể cung cấp sự văn minh cho trí tuệ, nhưng loài người không khỏa lấp được sự trống rỗng hay rịt những vết thương lòng. Loài người có thể làm được chăng? Chẳng bao giờ! Thanh niên đang đi tìm câu giải đáp đó. Nhìn lại quá khứ đời mình, những lúc sự trống rỗng chiếm hữu tôi là lúc tôi buồn khổ vô hạn. Tôi biết thanh niên đi tìm sự thật, đi tìm câu trả lời và họ đã đổ xô vào ma túy, thuốc phiện, vào thế giới huyền bí của ma thuật. Nhưng Kinh thánh bảo chúng ta hãy chống lại ma quỷ và các hình thức đội lốt của nó. Có nhiều tín hữu rất sợ hãi khi nghe đến ma quỷ, phù phép hay quỉ hiện hình. Thế giới huyền bí đã làm cho họ sợ hãi. Nhưng tại sao chúng ta lại sợ hãi chúng? Đó là những điều thật xảy ra hằng ngày. Chúng ta hãy nhớ kỹ rằng Giê-xu mạnh hơn tội lỗi và Sa-tan bội phần. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta không sợ hãi quyền lực của Sa-tan hay bất cứ hình thù nào của nó cả. Cũng chẳng sợ phù phép hay bùa ngải, thư ếm của nó. Đấng ở trong lòng bạn mạnh hơn Sa-tan rất nhiều. Nếu để những hình ảnh Sa-tan ám ảnh thì thật là nguy hiểm. Mặc dầu công tác truyền giáo của tôi là lột trần bộ mặt độc ác của Sa-tan nhưng tôi không luôn luôn nói về ma quỷ đâu, chỉ khi nào được yêu cầu thôi, nhưng không phải nói để tôn quyền lực của nó, nhưng để mọi người biết sự độc ác và quỉ quyệt của nó. điều tôi vui thích được nói nhất là về Tin lành của Chúa Giê-xu thôi.
Sách Khải-thị có chép: “Và họ thắng nó bởi huyết của Chiên Con và bởi lời làm chứng của họ”. Sa-tan ghét những người làm vinh hiển danh Giê-xu qua lời làm chứng của họ. Khi Giê-xu còn tại thế, Ngài chữa người đau, đuổi tà ma khỏi kẻ bị quỉ ám. Nhưng thời đại ngày nay, còn có nhiều người bị tà ma ám hơn thời đó vì chính Chúa Giê-xu nói rằng: “Càng ngày điều ác càng gia tăng”. Hiện nay rất nhiều cửa ngỏ đang đợi Sa-tan bước vào.
Vâng, Sa-tan có thật rất rõ ràng. Nhưng cảm tạ Chúa vì Giê-xu rất thực hữu. Lời Ngài nói như vậy và tôi cũng chứng minh điều đó nữa. Ma quỷ bị đuổi ra trong danh Chúa Giê-xu. Ma quỷ sợ Chúa rồi, rất sợ Chúa.
Kinh thánh chép: “Hãy đi ra loan báo rằng nước thiên đàng ở trong các ngươi. Hãy chữa kẻ đau, làm sạch người phong,đuổi tà ma ra khỏi kẻ bị quỉ ám. Các ngươi đã được cho không, hãy phát không”.
Chúng ta là môn đệ của Ngài. Tôi là môn đệ của Ngài. Ngài đã giải thoát tôi từ trong chốn tối tăm, đưa tôi đến tự do thật. Ngài đã đổ đầy Thánh Linh Ngài trên tôi. Vì thế, tôi tự nguyện dâng tất cả đời sống tôi cho Ngài, Ngài tha thứ cho tôi nhiều, tôi càng yêu Ngài nhiều hơn.
Một ngày kia, tôi cộng tác với ban truyền giảng tại Li-véc-pun (Liverpool). Mỗi đêm đều có những linh hồn tiếp nhận Chúa. Nhiều kẻ đau được chữa lành. Tôi chẳng bao giờ quên một tuần lễ ở đó vì Chúa đã đổ ơn phước Ngài xuống cách rõ ràng.
Gần ngày cuối của chiến dịch, có nhiều điều kỳ diệu xảy ra. một bà già đến gặp tôi, bà nói: “Xin cô cầu nguyện cho Đa-vít (David), cháu nội của tôi. Lúc còn thiếu niên nó là Cơ-đốc nhân tốt, nhưng bây giờ nó đã mắc vào bẫy của ma quỷ”. Nước mắt chan hòa trên đôi má bà cụ, bà tiếp: “Nó đã sống với tôi từ lúc còn nhỏ, tôi yêu quý nó vô cùng. Nhưng bao giờ nó là gánh nặng trên vai tới tôi không thể an nghỉ cho đến khi nào nó được giải phóng. Một tối kia, trong lúc tôi chờ đợi cháu trở về, vì tôi chẳng bao giờ nghỉ được cho đến khi tôi thấy nó trở về nhà bình an. Tôi đang ngồi trên ghế và cầu nguyện và rồi cảm biết có sự hiện diện của một con quỉ trong phòng. Thình lình tôi mở mắt, tôi thấy một con ma hiện rõ hình thù của nó. Tôi kêu danh Giê-xu thì nó lui khỏi.
Khi Đa-vít (David) trở về, tôi thấy nó lo lắng và tôi kể lại chuyện xảy ra cho nó nghe và nài xin nó hãy bỏ mọi sự mà trở về với Chúa Cứu Thế. Đa-vít (David) rất sợ hãi, nó quyết định sẽ bỏ bùa chú, phù phép. Tuy nhiên, nó không tự do từ bỏ cách dễ dàng. Hằng đêm tôi nghe tiếng chân nó đi lên đi xuống trong phòng. Nó đang ở trong tình trạng kinh khủng. Còn tôi thì luôn cầu nguyện cho nó. Tôi nài nỉ với nó hãy đi tới đây, nhưng nó từ chối rằng ‘Đã quá trễ’”.
Nói xong chừng ấy, tôi cầu nguyện cho bà. Lúc bà rời khỏi phòng, bà đầy tin tưởng. Tối hôm sau, Đa-vít (David) có mặt trong buổi nhóm. Khi tôi chấm dứt bài giảng, tôi kêu gọi ai muốn được cầu nguyện, xin tiến lên phía trước. Có rất nhiều người đáp ứng lời kêu gọi của Chúa. Có người cần được chữa lành bệnh thân thể, có người đến tiếp nhận Giê-xu làm Cứu Chúa của đời sống mình. Đức Thánh Linh đầy dẫy trên buổi nhóm. Nhiều linh hồn được cứu và nhiều thân thể được chữa lành. Lúc ấy, tôi không biết rằng chàng thanh niên mà tôi đã cầu nguyện cho tối hôm qua đó thì tối nay lại có mặt tại đây. Tôi cầu nguyện cho từng người một và tới chỗ Đa-vít (David). Tôi hỏi:
_“Em tên gì?”.
-“Dạ thưa Đa-vít (David)”.
Thánh Linh cho tôi biết ngay đây là cháu nội của bà cụ hôm qua. Tôi tiếp:
_“Em đã làm tan nát lòng bà nội em, Đa-vít (David) à”. Chàng rất đỗi ngạc nhiên. Tôi tiếp: “Em đang đùa với lửa, em biết không? Em cầu cơ và hành nghề phù phép, nhưng em đến cùng Chúa Giê-xu đêm nay, Ngài sẽ giải phóng cho em được tự do”.
Chàng trả lời:
_“Làm sao cô biết được những điều cô vừa mới nói đó?”.
-“Bà nội của em đã nói về em và tối nay chính Chúa cho biết rằng em là đứa con trai đó”.
Vâng, trong vòng 500 người tiến đến phía trước để cầu nguyện nhưng Chúa đã chỉ cho tôi biết chính đó là Đa-vít (David), đứa cháu nội của bà cụ kia.
Chàng thanh niên ở lại sau cùng và tôi đã nói chuyện với em mấy tiếng đồng hồ, chỉ cho em những tội lỗi mà em đã làm. Đa-vít (David) ăn năn tội thực sự, nhưng phải mất thời gian khá lâu, chàng mới được giải phóng với sự cầu nguyện nhiệt thành của các tín hữu. Tôi đã đuổi bảy con quỷ ta khỏi người con trai ấy, truyền cho tà ma xuống địa ngục trong danh Chúa Giê-xu. Đó là một trận chiến rất lớn, một chiến trận với chính Sa-tan. Tà ma rất mạnh, cố chống lại, nhưng Giê-xu mạnh hơn, và cuối cùng Đa-vít (David) đã thắng bởi quyền năng Chúa Giê-xu là Đấng Chiến thắng.
Lúc 3 giờ sáng hôm sau, Đa-vít (David) làm phép Báp-têm bằng nước đã có sẵn tại trại và cũng làm phép Báp-têm bằng Đức Thánh Linh. Chàng ca ngợi Chúa bằng tiếng của Thiên đàng, làm sao tả xiết sự vui mừng ấy.
Bà nội của Đa-vít (David) đứng bên cạnh, nước mắt tuôn trào, bà dâng lời ngợi khen Chúa vô cùng. Bà nói: “Bây giờ tôi có thể an nghỉ được rồi. Đa-vít (David) ngợi khen Chúa luôn miệng. Nó đốt tất cả bùa ngải, ngợi khen Chúa”.
Thưa quý độc giả, công trường thuộc linh không phải lúc nào cũng thắng đâu, cũng có lúc thất bại chứ; đó là lúc tôi bị ngã xuống trong một cuộc thất trận bởi sự xô đẩy rất lớn, đó là lúc tôi thiếu ân điển và sự khôn ngoan. Bấy giờ Sa-tan cười dòn: “Mày không có gì cả, chỉ toàn là thất bại, hãy bỏ khí giới của mầy xuống đi”.
Thay vì để cho thất bại ngăn trở, tôi để cho Chúa đỡ dậy; tôi gieo mình nơi chân thập tự giá và chấp nhận sự thất bại của mình. Tôi đã khóc với Chúa: “Giê-xu ơi, con đã thất bại, con đã làm hư công việc của Ngài. Nhưng con vẫn yêu Ngài, xin gia ân điển Ngài trên con để con tiến tới”. Có bao giờ Ngài dùng cây gậy rất lớn để đẩy chúng ta ra khỏi hàng của Ngài, vì chúng ta đã thất bại không? Không, ngàn lần không. Trái lại, Ngài dùng con roi nhân từ răn dạy chúng ta. Nếu chúng ta ăn năn tội mình, Ngài sẽ đỡ chúng ta đứng trên chân mình và dìu chúng ta tiến tới.
Chính chỗ tôi thất bại đã đưa tôi đến chỗ hoàn toàn tùy thuộc vào Giê-xu, vị chỉ huy của tôi. Điều thích thú của Sa-tan là thấy ta thất bại, nó liền bảo rằng ta không trọn vẹn, không thánh khiết đủ đâu và chẳng bao giờ ngóc đầu lên được. Nhưng cảm tạ Đức Chúa Trời chỉ có Giê-xu mới giúp chúng ta chiến thắng mọi sự.
Thưa các bạn Cơ-đốc nhân yêu quý, mỗi khi thất bại, hãy ngước mắt lên và trình với Chúa những thất bại ấy, đừng nhìn vào mình. Nương mình nơi Ngài, bưốc theo Ngài càng cao, càng cao hơn, càng sâu, càng sâu hơn với Christ.
Tôi vẫn ở trên trận chiến với Chúa tôi. không có Ngài, tôi chẳng làm chi được; không có Ngài, tôi chỉ có thất bại. Lúc nào còn hơi thở, tôi còn hầu việc Ngài; lúc nào Ngài còn cho tôi mượn tiếng nói, tôi ca ngợi Ngài, nói về tình yêu của Ngài, ân điển Ngài, lòng thương xót Ngài, quyền năng Ngài. Tôi muốn cả thế giới biết rằng tôi yêu Ngài. Tôi muốn nói cho mọi người biết rằng Giê-xu đang sống, Giê-xu đang lo liệu cho tôi, Giê-xu của tôi thật tuyệt diệu. Ngài làm mọi sự, không hề có việc gì khó khăn cho Ngài.
Một chiến thắng lớn nữa là tôi viết xong được sách này, đó là một cuộc tranh chấp lớn. Lúc đầu tôi không muốn viết, vả lại, tôi nghĩ rằng mình không thể viết được. Có nhiều người hỏi tôi: “Tại sao bà không viết một cuốn sách?” Nói thì dễ nhưng có mấy ai làm được? Hơn nữa, chúng tôi không có thì giờ. Nhưng sau khi cầu nguyện, tôi bắt đầu viết được dưới sự hướng dẫn của Chúa.
Tôi cầu nguyện cho tất cả độc giả được phước của Chúa Giê-xu. Cuối cùng tôi ngợi khen Chúa và cứ ngợi khen Ngài hơn nữa. Lạy Chúa, xin đến mau chóng! Ô, Giê-xu, Ngài là Cứu Chúa của con! A-men!
HẾT