Tôi theo Đạo Cao Đài, là đạo ông bà, cha mẹ. Ông nội, bà nội tôi là phó sự, cha tôi là giáo hữu, mẹ tôi là lễ sanh; chính tôi, hồi 10 tuổi là đồng nhi, đến 18 tuổi, tôi nhập môn, nghĩa là thề không bỏ đạo. Lời thề như vầy: "Tôi chỉ biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, nếu như sau mà tôi thay dạ, đổi lòng, thì thiên tru, địa lục!"
Vì vậy, phần nhiều tín hữu Cao Đài không ai dám bỏ đạo. Sở dĩ tôi dám bỏ đạo là vì tôi được đọc Kinh Thánh, Lời của Đức Chúa Trời.
Tôi biết không ai hơn Đức Chúa Trời. Thiên là Ông Trời mà tôi thờ Đức Chúa Trời, như vậy Đức Chúa Trời đâu có bắt tội tôi; còn địa lục là đất cũng ở dưới quyền của Trời. Nếu tôi còn tiếp tục là tín hữu Cao Đài Giáo là tôi có tội với Đức Chúa Trời vì Chúa cấm thờ hình tượng mà Cao Đài Giáo thờ một mắt ở trên, kế đó, thờ hình tiên, phật, còn thờ Chúa hàng thứ ba; như vậy, tôi thấy có tội cùng Chúa cho nên tôi quyết định tin Chúa.
Ông Phạm Công Tắc là người sáng lập Cao Đài Giáo, vợ ông là bà Tám. Ông bà có hai con gái, tên là cô Tranh và cô Cẩm. Ông là vị tiền bối đại từ hiền. Ông kêu gọi nhân sanh làm lành, lánh dữ để Trời ban phước, chớ ông đâu có nói nên làm lành, lánh dữ để ông ban phước cho nhân sanh. Ông cũng không nói ông là chân lý.
Tôi lập gia đình lúc 20 tuổi. Hai mươi hai tuổi tôi làm thông sự, nghĩa là người thông thạo luật lệ của giáo hội để khi nào trong anh em bổn đạo có xích mích với nhau thì giải thích đạo và dàn xếp sự xích mích của anh em. Từ năm 1960 đến 1973 tôi làm thông sự. Tôi tìm tất cả kinh trong Cao Đài không có cuốn kinh nào Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nói ông là chân lý. Ông chỉ nói để Trời ban phước cho nhân sanh. Năm 1960, chồng tôi và đứa con trai 10 tuổi bị cướp giết. Tôi bị mất hết tiền của. Mình tôi phải gánh vác gánh nặng năm gái và một trai vừa mới sanh được một tháng mười ngày. Tuổi đời tôi lúc đó mới 35. Vì gánh nặng gia đình tôi phải xin nghỉ làm thông sự để lo nuôi sáu đứa con nhỏ dại.
Tôi xin đi làm sở Mỹ ở Phi Trường Pleiku. Mười năm làm cho sở Mỹ tôi thấy đủ hạng người gian trá, giả dối. Tôi chán quá! Từ đó đến giờ, tôi chưa dám làm điều gì trái với lương tâm và cũng không dám làm phiền lòng người lân cận hoặc người thân trong gia đình. Tôi chỉ thấy những điều bất hạnh trong gia đình mà thôi. Tôi nghĩ, chắc gia đình tôi tiền kiếp không trồng cây phước đức cho nên bây giờ gia đình mình không được hưởng phước Trời ban cho.
Đang làm việc trong nhà ăn, sau khi lãnh lương về, tôi thảo luận với các con lớn: Mẹ con mình làm ăn chân thật lại gặp điều không may mắn. Mẹ nghĩ là kiếp trước của mẹ kém tu cho nên ngày nay mẹ con ta phải chịu gian truân. Vậy, mẹ khuyên các con ráng lo làm việc, học hành, còn mẹ đem các em nhỏ về Tây Ninh đặng mẹ lo lập công đức. Hai con lớn ở lại Pleiku đi học vì Pleiku ít tốn kém. Mẹ nghĩ, nếu mẹ ở lại dù có làm cho mấy cũng không qua khỏi ý Trời. Các con tôi bằng lòng để tôi về Tây Ninh. Lúc ấy, tôi trở về Tây Ninh, trở lại Thánh Thất Cao Đài năm 1970 và giữ chức Đệ Nhất Thông Sự Phân Đạo Hướng Đạo Bá Hữu. Tôi ăn chay trường từ năm 1970 cho đến năm 1986, chỉ tương, rau, dưa, muối, làm ra tiền thì cho con cháu; thấy ai túng thiếu, khổ hơn tôi, tôi cho họ tiền để làm phước. Rồi cũng chính trong thời gian tu hành, ăn chay, khắc khổ để tìm phước đời này, tôi chẳng tìm thấy phước hạnh là đâu, lại gặp biết bao buồn vui, tủi nhục nhưng buồn thì nhiều hơn vui.
Mười sáu năm ăn chay, cái trứng gà không dám ăn, sợ có tội sát sanh như vậy mà tôi không nhận được ơn phước gì của Trời ban cho. Tôi nghĩ, sự ban cho là của Đức Chúa Trời mà tôi đã phạm tội cùng Đức Chúa Trời nên chẳng nhận được sự ban cho.
Năm 1981, đứa con gái thứ năm của tôi (là mẹ của đứa con lai Mỹ mà qua đó sau này tôi được sang Mỹ với nó, định cư tại Tiểu Bang Utah) cảm thấy sống dưới chế độ cộng sản bị mất nhân quyền, sự sống hàng ngày trở nên vất vả, nên bằng mọi giá phải tìm cái sống, nên đã sa vào việc buôn bán xăng lậu, trái luật. Một hôm, con gái tôi bị bắt giam. Hai tháng sau, cộng sản cho tôi đứng ra bảo lãnh về nuôi dạy con. Hai tháng bị giam cầm thật cực khổ, ngày đi làm, tối về còn phải đi học chính trị. Nói là học cho đẹp chứ tới lớp chỉ nghe cán bộ chửi. Con tôi than phiền, thà chết chớ sống dưới chế độ Cộng Sản không thể chịu nỗi. Bằng giá nào, con cũng ra đi, tìm tự do. Gia đình mẹ con ta mất mát rất nhiều, mẹ tiện tặn được bao nhiêu nên hy sinh đưa tiền để con vượt biển, tìm tự do. Nếu con được đến Mỹ thì sẽ bảo lãnh mẹ qua, chúng ta sum họp, sống. Nếu chẳng may chết, đó là ý Trời. Tôi thật hết lòng khuyên can nhưng không hiệu quả.
Lần đi đó bị thất bại. Con tôi bị công an bắt nhốt, cưỡng bức lao động, cực khổ, đói khát, cơm không đủ ăn phải hái lá cây rừng ăn tạm cho đỡ đói. Con tôi móc nối với một nam thanh niên trong trại giam, cùng nhau vượt ngục. Thoát được bốn ngày, cả hai đều bị công an bắt lại. Người nam thanh niên bị công an đả thương chết tại chỗ, con gái tôi bị đả thương gảy cả hai chân, chở về đến trại giam hai ngày sau thì chết.
Sau năm tháng dài bặt tin, một hôm, có một thanh niên tìm tôi trao cho bức thư của con gái tôi viết trối trăn với mẹ là nó không thể nào chịu nỗi sự hà khắc của công an cộng sản nên quyết tâm trốn trại. Nếu không thoát khỏi sự kìm kẹp của cộng sản mà chết dọc đường thì quả là cái hạn xui của mình không qua khỏi. Thanh niên đó xác quyết với tôi rằng con gái của tôi đã chết cách năm tháng trước, hiện mộ được chôn dưới chân Trường Sơn. Thế mà công an không hề báo tử cho tôi biết.
Khi tôi tìm thăm mộ con tôi, công an không cho tôi được cắm mộ bia nên tôi cứ ở lại trại. Mãi đến 28 ngày sau, công an buộc lòng phải cho tôi cắm mộ bia cho con tôi, tôi mới chịu ra về. Công an còn hẹn tôi bốn năm sau mới được vào lấy cốt. Vì cảnh gia đình nghèo khó nên việc lấy cốt không thể thực hiện.
Một hôm, tôi đi Saigon có việc, nhân tiện tôi ghé sang một ngôi chùa xin gặp sư ông để thỉnh giáo. Xin sư ông vui lòng giải thích cho tôi về chân lý. Sư ông cho tôi biết là, Phật dạy chúng sanh phải tự lực cánh sinh vì Phật Thích Ca dạy con đường chính là mình. Phải dùng sức mình để đạt chân lý. Phật Thích Ca phán: Ta không phải là chân lý. Ta chỉ cho các con đường nào đến chân lý. Các con theo lời chỉ dạy mà đi. Như vậy, cũng như Tôn Giáo Cao Đài. Tôi từ giả sư ông ra về, lòng buồn bã, thất vọng vì mình đi tìm chân lý mà chẳng biết tìm ở đâu.
Về nhà con tôi ở Thị Nghè, Saigon. Trong khi nó đi làm, ở nhà tôi thấy trên bàn có quyển Kinh Thánh, tò mò, tôi mở ra xem trang đầu Sáng Thế Ký đoạn1, đến câu 31, con tôi đi làm về, tôi hỏi con tôi: quyển Kinh Thánh này ở đâu con có? Được nó trả lời, nó mua với giá gần 15 ngàn đồng Việt Nam. Muốn mua một quyển Kinh Thánh phải chờ đợi đôi ba tháng và khi nào ở Hà Nội gửi vào mới có. Tôi nói: dù có giá bao nhiêu con cũng mua cho mẹ một quyển. Con tôi nói: Nếu mẹ cần, cứ cầm quyển Kinh Thánh này về Tây Ninh, con sẽ mua quyển khác. Thú thật với mẹ, vợ chồng con đã tin nhận Chúa gần một năm nay. Sở dĩ chúng con không cho mẹ biết vì mẹ là thông sự và mẹ ăn chay đã 16 năm. Nay mẹ muốn đọc Kinh Thánh, con rất đỗi vui mừng. Con cầu xin Chúa mở mắt mẹ để mẹ có thể hiểu được Lời Chúa.
Mang quyển Kinh Thánh về Tây Ninh, lòng những vui mừng, tôi hằng đọc Kinh Thánh mỗi ngày và đọc mất một tháng năm ngày là hết quyển Kinh Thánh. Kinh Thánh chép:
Sáng Thế Ký 1:1 "Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất."
Ma-thi-ơ 7:7 "Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho."
Ma-thi-ơ 11:28 "Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ."
Công Vụ Các Sứ Đồ 4:12 "Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu."
Giăng 14:6 "Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha."
Khải Huyền 20:15 "Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa."
Những câu Kinh Thánh này đánh mạnh vào tâm linh và từ chỗ bấy lâu nay tôi sống trong sự tối tăm, nay Chúa đã mở mắt tôi. Tôi quyết định từ bỏ Đạo Cao Đài, trở lại tin theo Chúa. Chúa là Đấng tạo dựng loài người chớ chẳng có Đấng nào khác. Nếu không chịu tin Chúa là có tội với Chúa.
Khi tôi xuống Thị Nghè, Saigon lần kế, tôi hối thúc con tôi dẫn tôi đến nhà thờ Tin Lành Thị Nghè đặng chịu lễ báp-tem vì tôi đọc thấy trong Khải Huyền 20:15; tôi rất sợ nếu đêm ấy không chịu lễ báp-tem kịp, rũi chết sẽ bị xuống hồ lửa. Con tôi cho biết, Hội Thánh mỗi 4 tháng mới có làm lễ báp-tem một lần. Hôm nay mẹ xuống, may quá, Chủ Nhật tới này Hội Thánh có làm lễ báp-tem. Mẹ chỉ còn có một ngày để học giáo lý. Những người sắp chịu lễ báp-tem đều đã học 15 lần rồi. Lòng tôi bắt đầu bối rối. Người ta học 15 lần, còn tôi chỉ có một lần, làm sao đậu được?
Tôi đọc Công Vụ Các Sứ Đồ 13:3 "Đã kiêng ăn và cầu nguyện xong, môn đồ bèn đặt tay trên hai người, rồi để cho đi." Tôi bắt đầu kiêng ăn, cầu nguyện và học bài giáo lý. Mới tin nhận Chúa tôi không biết cầu nguyện như thế nào, nên chỉ vắn tắt: "Xin Chúa tha tội cho con. Xin Chúa tha tội cho con, vì con là kẻ có tội. Nhân danh Chúa Jesus. A-men!"
Chiều đi làm việc về, con tôi hỏi, hôm nay mẹ học được mấy câu? Tôi e ngại trả lời, mẹ ngu quá con, học trước quên sau. Chắc mẹ không thi được quá. Con tôi an ủi, nếu lần này mẹ thi không được thì lần sau.
Sáng Chủ Nhật, mẹ con dắt nhau đi nhà thờ Khánh Hội. Truyền Đạo Lê Phước Thiện phụ trách việc thi để chịu lễ báp-tem. Khi được Truyền Đạo Thiện hỏi, bà có viết được không? Tôi trả lời, thưa được nhưng bây giờ mất bình tỉnh quá, lại nữa, tôi học trước, quên sau, xin thầy hỏi để tôi trả lời miệng.
Thầy Thiện hỏi: Tại sao bà quyết định tin Chúa?
Trả lời: Giăng 14:6,7 "Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha. Ví bằng các ngươi biết Ta, thì cũng biết Cha Ta."
Hỏi: Bà căn cứ vào đâu mà tin Chúa?
Trả lời: Tôi tin Lời Chúa hứa trong Kinh Thánh
Thầy Thiện: Bà đậu rồi.
Tôi rất mừng và tin rằng nhờ Đức Thánh Linh ban ơn cho tôi chớ khi học, tôi không có đức tin là sẽ thi đậu. Tôi liền trở về tây Ninh nội Chủ Nhật ấy và dọn dẹp tất cả bàn thờ, hình tượng Cao Đài, đem đốt tất cả. Con tôi sợ quá. Tôi giải thích cho nó, mẹ nhân danh Chúa Jesus mà dẹp, đốt tất cả các bàn thờ, hình tượng, vì từ trời cao hoặc dưới đất thấp này chẳng có ai lớn hơn Chúa đâu mà con sợ.
Trước khi sống trong Chúa, gia đình tôi thật sống trong hoàn cảnh bi đát, cơm không đủ no, tiền bạc thiếu thốn, chồng con bị cướp giết, một đứa con gái bị công an cộng sản đả thương chết trong trại giam; nhưng từ khi tin Chúa đến nay, gia đình sống trong sự bình an, hy vọng. Chúa đã thăm viếng gia đình, dù trong hoàn cảnh nào cũng chỉ kêu cầu Chúa luôn, nên từ đó, mọi việc trong gia đình thật tốt đẹp, tràn đầy ơn Chúa.
Tôi được làm báp-tem ngày 3 tháng 3 năm 1986. Từ đó, tôi thường xuyên đi thờ phượng Chúa mỗi Chủ Nhật, kiêng ăn ngày Thứ Bảy.
Chúa còn ban cho tôi một ơn khác nữa. Khi tôi đi khám sức khoẻ, bác sĩ nhãn khoa thấy mắt tôi có cườm, ông khuyên tôi nên mổ mắt, nếu không, sau này mắt sẽ không còn thấy. Tôi nhận lời mổ mắt, hiện nay mắt tôi rất tốt, tôi chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa những điều Chúa ban cho tôi.
Sau khi mổ mắt về vài ngày, vì dốt nát không biết nên uống lầm thuốc bị ngất xỉu, cả nhà đều đi vắng. Nhờ cô Mai là đồng hương ở cách nhà tôi vài căn, tình cờ ghé thăm tôi vì nghe nói tôi vừa mổ mắt, vào nhà thấy tôi bị ngất xỉu nên vội kêu xe cứu thương chở tôi đi bệnh viện cứu cấp. Một sự khó khăn cho bác sĩ, đó là, phần thì tôi bị ngất xỉu, phần thì cô Mai không biết việc gì xảy ra nên bác sĩ phải tự tìm lấy nguyên nhân và chữa lành cho tôi.
Sau khi tôi rời Việt Nam được một tháng, đứa con trai út của tôi tên Tứ Hiền nay đã lớn, có gia đình, nhưng vì chưa tin Chúa nên ham mê theo thế gian, bỏ vợ con, theo vợ nhỏ, tôi viết thơ về khuyên can.
Trong bức thơ khuyên nó, tôi viết: Con phạm điều răn của Chúa, con phải ăn năn xưng tội cùng Chúa, xin Chúa tha tội cho con thì mẹ cũng tha tội cho con. Nếu con không ăn năn, Chúa không tha tội và mẹ cũng không tha tội, mẹ buồn và xấu hổ vì con, mẹ sẽ chết vì con. Được thơ, Tứ Hiền buồn, đứng dậy ăn năn, bỏ vợ nhỏ, về với gia đình. Sau đó, Tứ Hiền cầu nguyện tin Chúa và đã làm lễ báp-tem. Được thơ con báo tin, lòng tôi rất vui mừng, cảm tạ ơn Chúa. Thật quyền phép Chúa lớn lao đã đổ trên gia đình tôi cách dư dật, chẳng những cho chính tôi mà còn cho con cái tôi nữa.
Hiện nay, Chúa đem tôi qua đất Mỹ này cách bình an, đời sống vật chất đầy đủ, sức khoẻ trọn vẹn. Trước đây, mắt tôi rất kém không thấy rõ, nay nhờ mổ mắt, tôi đọc Kinh Thánh dễ dàng, phần thuộc linh của tôi thật tràn đầy ơn Chúa. Lòng tôi lúc nào cũng thấy tình thương của Chúa dư dật đổ trên tôi, nhất là từ ngày tôi ăn năn, tin Chúa đến nay, trọn đời sống tôi không có lúc nào được hưởng sự bình an như hiện tại. Tôi vẫn trung tín kiêng ăn ngày Thứ Bảy, còn Chủ Nhật thì đi thờ phượng Chúa. Tôi cũng cầu xin Chúa gia ân cho tôi để tôi có thể bảo lãnh được mẹ già và một số con cháu còn ở tại Việt Nam. Xin quý anh chị em trong Chúa nhớ đến tôi mà hằng cầu nguyện cho gia quyến tôi được sum họp. Tôi tạ ơn Chúa. A-men!
Nguyễn Thị Đỉnh