"Bấy giờ cuộc đời tôi có sự thay đổi, tôi từ bỏ những thói hư tật xấu. Tôi không còn giao du với những bạn bè xấu; cũng như bỏ đi việc đến những quán rượu; thói quen bịa đặt những điều dối trá không còn nữa, mặc dầu có đôi khi tôi cũng còn nói vài điều không đúng sự thật...Tôi không còn đấm chìm trong tội lỗi như xưa, mặc dầu nhiều khi tôi phải chống cự những cám dỗ và những tội lỗi kéo đến, nhưng không có thường xuyên như xưa nữa. Mỗi lần như vậy, lòng tôi thật bức rức. Tôi đọc Lời Chúa, cầu nguyện thường xuyên, yêu thương các bạn bè trong Chúa, đi nhà thờ với mục đích đúng là tìm kiếm Đấng Christ, mặc dầu bị bạn bè cười ngạo."Chỉ vài tuần sau khi được cứu rỗi Muller có sự tiến bộ vượt bực trên con đường theo Chúa, và ông hăng hái muốn trở thành một giáo sĩ. Nhưng ông bị tiếng xét ái tình với một cô gái theo Thiên Chúa Giáo, và chẳng bao lâu ông hầu như quên lững Chúa. Nhưng cũng may Muller được chứng kiến một giáo sĩ trẻ tuối từ bỏ những xa hoa tiện nghi của một gia đình êm đẹp để đi phục vụ Đấng Christ. Việc này mở nhản quan của Muller cho ông thấy thái độ ích kỷ của ông và thúc đẩy ông từ bỏ cô gái đã chiếm mất chỗ của Đấng Christ trong lòng ông. Ông kể lại, "Đến lúc đó tôi bắt đầu hưởng thụ được sự bình an trong Chúa, vượt quá mọi sự hiểu biết. Trong niềm vui ấy, tôi viết thư cho Cha tôi và em tôi, khuyến khích họ tìm kiếm Chúa, và kể cho họ nghe hiện nay tôi vui thỏa làm sao; ngây thơ nghĩ rằng con đường hạnh phước bầy ra cho họ, họ sẽ vui mừng tiếp nhận. Nhưng trong nỗi ngạc nhiên lẫn thất vọng, tôi chỉ nhận sự giận dữ đáp lời."
George không thể được nhận vào viện huấn luyện truyền giáo bên Đức nếu không có sự ưng thuận của Cha ông, điều này hầu như không thể thực hiện được. Cha ông qua đau buồn thất vọng vì chỉ mong cho ông đi học đề ông trở thành một giám mục cho thay vì làm giáo sĩ. George cảm thấy ông không còn hy vọng nhận được những trợ cấp gì từ cha mình nữa. Chúa đã dầy ơn cung cấp cho ông phương tiện để ông có thể hoàn tất việc học vấn của ông. Ông dạy tiếng Đức cho vài vị giáo sư người Mỹ tại trường đại học và họ hậu đãi ông với lương bỗng rộng rãi. Ông có dịp tiện đem một số linh hồn về với Đấng Christ. Ông phân phát hàng ngàn truyền đạo đơn và tài liệu chứng đạo, và nói về Chúa cho nhiều người về việc cứu rỗi cho linh hồn họ.
Mặc dầu, trước khi ông được cứu, Muller đã viết thư cho cha ông kể lễ về những bài giảng ông đã giảng, nhưng thật ra ông thật sự giảng sau khi ông được cứu. Lúc đó ông nghĩ rằng chỉ làm cha ông vui lòng khi nói về việc ông giảng. Bài giảng đầu tiên ông viết ra và học thuộc lòng cho dịp tiện đó, nhưng vẫn bị gượng gạo. Lần thứ hai ông giảng, ông được tự nhiên bạo dạn hơn. Ông kể lại "Tôi được giảng thường xuyên hơn ở những làng hay những thành phố chung quanh. Nhưng tôi không có một chút hứng thú nào để giảng, ngoại trừ lúc nói chuyện một cách bình thường và đơn giản; việc lập đi lập lại bài giảng dtrong trí nhớ chỉ nhận được những lời tán thưởng của người nghe. Nhưng cách giảng nào đi nữa, tôi vẫn không thấy có kết quả tốt. Một lý do Đức Chúa Trời không cho tôi thấy có kết quả tốt, theo tôi nghĩ, vì tôi bị đề cao nhiều quá. Một lý do nữa là tôi cầu nguyện quá ít cho việc giảng lời Chúa, và vì tôi thông công với Chúa quá ít, và ít khi được uốn nắn để làm vinh hiển, biệt riêng ra, và gặp gỡ riêng "vị Thầy" để được vị "Thầy" xử dụng.
Những thanh niên thật sự tin kính Chúa tại trường đại học tăng lên từ sáu đến hai mươi người trước khi Mueller học xong. Họ thưòng nhóm họp ở phòng của Mueller để cầu nguyện, ca ngợi, và đọc lời Chúa. Chính Muller nhiều khi đi bộ từ mười đến mười lăm dặm để nghe một mục sư được ơn giảng.
Năm 1827 Muller tình nguyện làm mục sư giáo sĩ cho người Đức ở Bucharest, xứ Rô Ma ni, nhưng trận chiến tranh giữa người Thổ Nhĩ Kỳ và người Nga đã ngăn trở việc này. Năm 1828, ông tình nguyện với Hội Truyền Giáo Luân Đôn để làm giáo sĩ cho người Do Thái. Ông không những thành thạo tiếng Hê bơ rơ, lại còn yêu thích nó. Hội này muốn ông đến Luân Đôn để được gặp ông. Qua sự mở đường của Chúa, sau cùng ông được miễn dịch vĩnh viển khỏi phải đi lính phục vụ trong quân đội Đức, nhờ vậy ông lên đường đến Anh Quốc vào năm 1829, vào lúc ông hai mươi bốn tuổi. Thời gian đầu ông không biết nói tiếng Anh nên ông hơi chật vật.
Sau khi đến Anh Quốc một thời gian, Muller nhận được một sự thay đổi sâu xa trong đời sống thuộc linh của ông, làm cách mạng cuộc đời ông. "Tôi bị trở nên yếu đuối về phần thể xác ở Anh Quốc hậu quả vì tôi rang sức quá đổi trong việc học hành, tôi bị ngả bệnh ngày 15 tháng 5, và chẳng bao lâu, theo như sự ước đoán của tôi, không còn phương cứu chửa. Càng yếu đuối về phần thể xác bao nhiêu, tâm thần tôi càng vui thỏa bấy nhiêu. Trong suốt cuộc đời tôi, chưa bao giờ tôi nhận ra tôi quá hư đốn, quá tội lỗi, như tôi cảm nhận lúc đó. Hầu như từng tội lỗi trong quá khứ của tôi, tái xuất hiện trong tâm trí tôi; nhưng cũng cùng lúc đó tôi cảm thấy tất cả tội lỗi của tôi đã được tha thứ -- tôi đã được rửa sạch và hoàn toàn trong trắng, trong máu huyết của Chúa Jesus. Kết quả là tôi có được một sự bình an vô cùng. Tôi mong muốn lìa khỏi thế gian này để gặp đươc Đấng Christ..."
Sau khi tôi bị bệnh chừng mười lăm ngày, thình lình người y tá báo cho tôi biết tôi đã khỏe hơn. Điều này, thay vì làm cho tôi vui mừng, lại làm cho tôi bị buồn bả, vì tôi quá muốn được gặp Cứu Chúa; mặc dầu lập tức sau đó ân điển Chúa đã cho tôi để tôi dâng hiến cuộc đời tôi cho ý muốn của Đức Chúa Trời."
Ông Muller luôn luôn coi kinh nghiệm kể trên làm cho ông dấn thân sâu vào con đưòng thuộc linh. Ông đã viết một bức thư kể lại kinh nghiệm này đuợc xuất hiện trong tạp chí Người Cơ Đốc Anh, xuất hành vào ngày 14 tháng 8, 1902. Trong thư ông viết, "tôi trở thành người tin Chúa vào đầu thángh Mười Một năm 1825, bây giờ đã đươc sáu mươi chin năm và tám thắng, bốn năm đầu tiên, hầu như tôi còn thật yếu đuối; nhưng vào tháng Bảy, năm 1829, bây giờ đã sáu mươi sáu năm qua rồi, tôi hoàn toàn đầu phục Chúa. Tôi dâng hiến trọn đời tôi cho Chúa. Danh dự, vui thú, tiền bạc, thể xác, tâm trí tất cả đều trải xuống dưới chân Đức Chúa Giê Xu, và tôi trở nên người yêu thích lời Chúa. Tôi đã tìm thấy tất cả cuộc đời tôi trong Chúa, Đức tin của tôi không những cho những điều chóng qua, nhưng còn cho mọi điều, bởi vì tôi trung tín với Lời Chúa. Sự hiểu biết của tôi về Chúa và lời Ngài là điều giúp tôi.
Được khuyên lơn phải về miền quê để dưỡng bệnh, ông cầu nguyện và cuối cùng ông quyết định đi. Ông đi đến Devonshire, nơi đó ộng càng nhận thêm ơn phước lớn lao nhờ nói chuyện và cầu nguyện với một vị mục sư đầy dẫy Thánh linh Chúa, người mà ông đã nghe giảng lần đầu tiên ở Teignmouth.. Qua những cuộc nói chuyện và lời giảng của vị mục sư này, ông được hướng dẫn để tin rằng chỉ có Lời Chúa mới là tiêu chuẩn để phán xét mọi điều thuộc linh; Lời Chúa chỉ có Đức Thánh Linh mới giải thích được mà thôi; ở thời đại của chúng ta, cũng như của quá khứ, Ngài là giáo sư cho tất cả mọi người. Vai trò của Đức Thánh Linh tôi không có hiểu trước đây," ông ta kể lại, "kết quả là, sau đêm thứ nhất, tôi vào ở trong phòng một mình cầu nguyện và suy gẩm Lời Chúa, tôi học trong vài giờ nhiều hơn tôi đã làm trong mấy tháng trời trước đây." Một lần nữa, ông nói, "thêm vào những sự thật này, Chúa đẹp lòng dẫn dắt tôi nhận ra tiêu chuẩn cao độ của việc tận hiến mà tôi chưa từng thấy bao giờ."
Khi trở về Luân Đôn, ông Muller tìm cách hướng dẫn những anh em đang theo học tại chủng viện đi sâu vào đời sống thuộc linh như ông được kinh nghiệm. "Một người anh em trong Chúa," ông kể lại, "được đạt tới tâm trạng thuộc linh như tôi; còn những người khác, ít nhiều cũng có sự tiến bộ. Nhiều lần sau khi cầu nguyện gia đình xong, tôi cảm thấy tương giao với Chúa rất ngọt ngào nên tôi về phòng tiếp tục cầu nguyện đến nửa đêm, và với lòng tràn đầy niềm vui thỏa, tôi đi sang phòng của anh bạn vừa nói trên, thì cũng thấy anh ta đang cùng tâm trạng như tôi, chúng tôi cùng nhau cầu nguyện đến một hay hai giờ khuya, và nhiều khi tôi quá vui mừng tôi không ngủ được, và đến sáu giờ sáng tôi lại kêu anh bạn đó cùng cầu nguyện với tôi."
Muller giảng dạy khắp các tỉnh lỵ chung quanh, và nhiều linh hồn ăn năn trở lại cùng Đấng Christ.khi nghe ông giảng. Năm 1832, ông cảm thấy rõ ràng chức vụ của ông tại Teignmouth chấm dứt, và ông đi đến Bristol cùng năm ấy khi ông nhận ra rõ rang là Chúa muốn ông làm việc ở đó. Khi Thánh Linh, Lời Chúa, và sự dự bị của Chúa cùng thỏa hiệp, chúng ta có thể biết chắc rằng chính Chúa đang hướng dẫn chúng ta, bởi vì khi ba điều này cùng hòa họp, thì không thể bất đồng ý được. Không những Muller cảm thấy Chúa hướng dẫn ông thi hành chức vụ ở Bristol, nhưng những dự bị của Chúa cũng mở đường ra, và cũng rất hoà họp với lời của Chúa.
Muller bắt đầu chức vụ ở Bristol năm 1832, cùng chủ tọa hội thánh với bạn ông là Mr. Craik, người cũng được gọi đến hầu việc Chúa ở thành phố này. Không có tiền lương và những dẫy ghế cho thuê trong nhà thờ, chức vụ của họ được Chúa ban ơn vô cùng ở Gideon và Bethesda Chapels. Số tín hữu gia tăng đến bốn lần trong một thời gian ngắn. Mười ngày sau khi nhà thờ Bethesda khánh thành, có rất nhiểu người tìm đến nhận sự cứu rỗi, và phải mất bôn tiếng đồng hồ để có thể nói chuyện cá nhân cho từng người.

Vào lúc bảy mươi tuổi, ông Muller bắt đầu những chuyến du hành truyền giáo. Ông đã du hành 200,000 ngàn dặm, đi vòng quanh thế giới và giảng dạy khắp nơi qua nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ông thường xuyên giảng trước đám đông khoảng từ 4,500 đến 5,000 người. Ba lần ông du hành sang Mỹ quốc giảng từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây. Ôn g tiếp tục công chức vụ hầu việc Chúa và việc truyền giáo cho đến khi ông chin mươi tuổi. Ông ước đoán trong mười bảy năm du hành truyền giáo, ông phân phát lời Chúa cho hơn ba triệu người. Tất cả những chi tiêu cho việc này được gởi đến hoàn toàn do đáp ứng của sự cầu nguyện trong đức tin.
TNPA