
Theo giáo lý nhà chùa thì đây là vị thần cai trị các linh hồn vất vưởng đói rách không được ai cúng thức ăn (cô hồn). Mỗi buổi kinh chiều, nhà chùa cúng một bát cháo lỏng đặt ngay bàn thờ ông Tiêu Diện và tụng bài kinh Thí Thực. Niềm tin nầy rất thích hợp với người bình dân Việt Nam. Tôi đã học giáo lý đạo Phật để tìm giải đáp, nhưng càng học, càng có thêm những thắc mắc khó giải thích hơn. Ví dụ có chùa chuyên làm bùa Quang Minh và bùa Hải Hội để giải oan cho những linh hồn “nghiệp nặng“ chết nhằm vào “ngày xấu“. Ngày nay nhiều chùa bói toán, xin quẻ. Là một tu sĩ, tôi phải học nhiều giới cấm. Càng nhiều giới cấm, người ta càng dễ phạm giới, vì thế có một giới cấm đặc biệt là tu sĩ cấp dưới không được phép tò mò tìm hiểu giới luật của tu sĩ cấp trên. Mỗi sáng thức dậy, ai quên đọc câu thần chú trước khi đặt chân xuống đất là mắc tội sát sanh vì vô tình đạp chết côn trùng trong ngày đó. Hoặc quên đọc thần chú uống nước là mắc tội ăn thịt 8 vạn bốn ngàn con vi khuẩn trong một ly nước. Cạo đầu mà không đọc thần chú cũng có tội. Ở chùa ăn nhiều rau. Lắm lần tôi thấy sâu chết trong rau muống luộc. Luộc những nồi rau to tướng như thế là giết rất nhiều sinh vật, thế nhưng không ai học câu thần chú luộc rau cả. Ngày xưa Phật cấm nam tu sĩ đứng tiểu tiện, nhưng sau đó dân chúng tưởng rằng tất cả đệ tử của Phật là phụ nữ, Phật phải hủy giới cấm ấy để tránh bị hiểu lầm. Vì giới luật nhà tu quá chi li, nên không ai giữ được trọn vẹn một giới nào cả. Chẳng ai muốn tiết lộ sự phạm giới của mình. Đáng tiếc là đạo Phật không nhìn nhận một cách minh bạch về vấn đề tội lỗi. Để phá chấp, người tu sĩ cấp cao học về ý nghĩa của sự phi giới và cao hơn nữa là vô phi giới. Mỗi khi ăn cơm, người tu hành đọc ba câu thề nguyện mà không một ai tin mình làm được.
Thậm chí người ta đọc quen đến nỗi không cần một ý niệm tha thiết chân thành.
Một là từ bỏ tất cả việc ác (nguyện đoạn nhất thiết ác).
Hai là làm trọn tất cả việc lành (nguyện tu nhất thiết thiện).
Ba là hóa độ tất cả chúng sanh ( thề độ nhất thiết chúng sanh).
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ. Có tám nguyên nhân chính gây ra đau khổ. Sinh khổ, Lão khổ. Bịnh khổ. Tử khổ. Thương yêu mà không được gần nhau là khổ (ái biệt ly khổ). Ghét nhau mà phải gần nhau là khổ (oán tăng hội khổ). Ước muốn không thành là khổ (cầu bất đắc khổ). Thân thể và tâm hồn mất thăng bằng là khổ (ngủ ấm thạnh khổ). Giáo lý quan trọng đầu tiên của đạo Phật là Chân Lý Của Sự Đau Khổ. Muốn diệt đau khổ thì phải diệt sanh sản (diệt dục), diệt già nua (diệt lão), diệt bịnh tật, diệt sự chết. Nhưng chưa đủ, còn phải diệt thương yêu (ái nghiệp), diệt ham muốn (tham), diệt giận hờn (sân si). Muốn diệt khổ tuyệt đối thì phải diệt luôn cả ý muốn thành Phật (vì ai muốn thành Phật là còn tham!) Đạo Phật tin vào luật quả báo thiện ác, nhưng không chấp nhận ai là đấng tạo ra luật quả báo thiện ác công minh, cũng không giải thích luật nhân quả công minh nầy từ đâu mà ra.
Tôi cần mẫn học từng bậc, đến khi tốt nghiệp trường đào tạo tăng tài Phật Học Viện Nha Trang và đại học Vạn Hạnh, tôi tự cảm thấy mình đi tu như thế vẫn không tiêu diệt bớt tội lỗi trong tôi. Chưa kịp tiêu diệt tội cũ, tội mới ló mặt ra trong tôi. Nếu có địa ngục chắc tôi phải vào trước nhất. Làm một ông thầy tu phải biết che dấu tội lỗi để được các đệ tử thờ lạy khi mình còn sống. Người tu hành sau khi đã lên tới bậc Đại Đức thì khó hoàn tục, vì được hưởng sự kính trọng quá cao và hưởng nhiều ưu đãi quá lớn.
Sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản, tôi lập lại gia đình, nhưng không ngờ gặp nhiều điều ngang trái khác! Thế là gia đình tôi lại đổ vỡ một lần nữa. (Xin quý vị đọc 2 quyển sách Ai Chết Cho Ai? Ai Sống Cho Ai? Và Từ Ao Cà Sa Đến Thập Tự Giá để thấy rõ những chi tiết nầy hơn).
Ngày nay tôi sống trong Đức Tin của Chúa, sự cầu nguyện và kết quả của sự cầu nguyện chẳng khác gì mình thụ hưởng thức ăn điều độ và hít thở khí trời trong lành ắt là phải có sức khỏe tốt cho mình mà thôi. Sau khi trở về trong Chúa, tôi được Chúa thay đổi bản tính tội lỗi để được mặc vào bản tính mới: tự do, nhẹ nhàng, khoan khoái thật là tuyệt vời. Chúa cho tôi đắc thắng tội lỗi mà không kiêu ngạo và Chúa cũng cho tôi thấy cái vực thẳm giữa sự thánh khiết và tội lỗi là rất mỏng manh, nhưng hai thế giới ấy cách xa nhau lắm. Mỗi ngày sống trong Chúa quả thật là quý báu. Dù bị thế gian bắt bớ, bị hiểu lầm, bị xuyên tạc, tôi vẫn là một người hạnh phúc và yêu quý mọi người. Không thất vọng, không nghi ngờ, tôi vui thỏa từng giờ, từng ngày. Đó là sự bình an, sự yên nghỉ mà Chúa hứa ban cho bất cứ ai muốn đi theo Ngài. Tôi tiếp tục sống với Lời Chúa và nhận được những kết quả vô cùng lớn lao. Khi cầu nguyện, tâm hồn tôi bình tịnh, tỉnh táo, nhẹ nhàng, khiêm hạ và thực tế chứ không mù mờ như khi ngồi thiền trước đây. Bổn tánh nhân từ thánh khiết của Chúa được bồi đắp thêm trong con người mới của tôi mỗi ngày rất cụ thể. Đây là những kết quả quý báu để làm bằng chứng về nước thiên đàng mai sau như lời Chúa hứa.
Đối chiếu Phật Học và Thánh Kinh, nhất là kinh nghiệm tu hành theo Đạo Phật với kết quả kỳ diệu trong Đức Tin Chúa ban cho tôi, tôi nhận thấy rằng thái tử Tất Đạt Đa là một người thiết tha tìm con đường giải thoát sau bốn lần ra khỏi cung vua để nhìn thấy cuộc đời toàn là đau khổ. Với bản tính một người An Độ, thái tử đã suy nghiệm sâu xa về sự huân tập đức tánh xấu trong con người, nhưng thái tử chưa thấu đạt nguyên nhân của sự huân tập ấy là từ tội lỗi của con người như Kinh Thánh đã nói rõ. Vì thế thái tử cho đó là nghiệp lực thay vì là tội lỗi. Tiếc thay thời đó Kinh Thánh Cựu Ước chưa được truyền qua Ấn Độ, mặc dầu thái tử đã học nhiều tôn giáo khác nhau. Là một người thông minh vượt bực, lại có lương tâm nhạy bén, thái tử Tất Đạt Đa không thỏa mãn với những luồng tư tưởng và tôn giáo nặng thần bí theo văn hóa An Độ. Sáu năm đầu sau khi từ bỏ hoàng cung để quyết chí tu học, thái tử đã thất bại với pháp môn khổ hạnh đầu đà. Rốt cuộc thái tử Tất Đạt Đa cương quyết ngồi thiền bên bờ sông Ni-liên. Ngài thề rằng “Nếu ta không tìm ra chân lý, thà chết chứ không đứng dậy khỏi nơi nầy”. Khi ngồi thiền, thái tử đã thấy những hiện tượng nội tại như ngày nay nhiều người ngồi thiền cũng đã thấy. Từ đó Ngài nghĩ rằng mình đã thành Phật. (Ngày nay một số người ngồi thiền cũng tự xưng mình đã thành Phật). Phần đông người ta không đủ can đảm để tự hỏi đâu là chân lý ngoài các nghi thức cố chấp và triết lý mơ hồ. Vì không có chân lý, những mâu thuẫn sờ sờ cũng không ai màng che đậy. Ví dụ nghi lễ quy y thì có ba câu thề nguyện, câu đầu là “Qui y Phật, tôi thề sẽ không qui y, trời, thần, quỷ vật”, nhưng câu nói đầu tiên nơi cửa miệng người ta là “Cầu trời khẩn Phật”. Nghĩa là cầu trời trước rồi khẩn Phật sau! Còn thờ lạy thì thờ lạy đủ các loại thần mà họ không biết, kể cả thần Quan Công, thần Hộ Pháp, thần chú, thần hoàng thổ địa, thần cô hồn các đảng...
Kinh Thánh nói “Vì mọi người đều đã phạm tội, nên đã thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời“ (Roma 3:23). Đức Chúa trời yêu con người dù con người đã phạm tội. Nhưng Đức Chúa Trời không chấp nhận tội lỗi, nên Ngài đã lập kế hoạch giải cứu con người ra khỏi tội lỗi. Giải pháp của Ngài có hai phần chính: Tha thứ tất cả những vi phạm đã qua từ trong bản chất đến hành vi, và dắt dẫn chúng ta vào sự sống mới để đắc thắng tội lỗi. Tất cả giải pháp của Ngài đều được đặt trong Con Một của Ngài là Chúa Cứu Thế Jesus Christ. Chúa Jesus Christ xác nhận rằng: “Vì Đức Chúa trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời“ (Giăng 3:16). Chúa Jesus Christ đã hiện đến thế gian suốt 2000 năm qua. Ngài đã chết trên thập tự giá để sự chết cưú chuộc của Ngài là nơi mà chúng ta đem tội lỗi mình đến để đặt vào bằng tấm lòng ăn năn và tin cậy Ngài. Ai tin vào Ơn Cứu Chuộc của Ngài thì tội lỗi của người ấy bị đóng đinh để đồng chết với Ngài trên thập tự giá. Nhưng Ngài là Đấng đến từ Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại. Quyền năng sống lại của Ngài đem đến cho kẻ tin Ngài sức sống phục sinh mới mẻ. Nhờ sức sống phục sinh mới mẻ nầy, con người chúng ta nhận biết Ảnh Tượng của Đức Chúa Cha trong chúng ta vốn đã bị tội lỗi che lấp. Ảnh Tượng của Ngài được tái dựng trong chúng ta để chúng ta tái sở hữu bằng chứng của địa vị làm con Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không trở về với Chúa, nghĩa là chúng ta vẫn để tội lỗi cai trị chúng ta và tội lỗi tiếp tục ngăn cách tình Cha Con của Đức Chúa Trời và chúng ta. Nếu khước từ ơn tha tội của Chúa, chúng ta sẽ vào địa ngục sau khi chết phần xác. Ví dụ một đứa con từ bỏ cha mẹ, dù nó ăn chay trọn đời vẫn cứ mang tội bất hiếu. Một người từ chối Đấng tạo dựng nên mình, dù có tự đặt ra cho mình bao nhiêu giới tu vẫn là một người có tội với Trời. Trước hết phải quay lòng về với Chúa, sau đó mới nói tới chữ thay đỗi theo sự dắt dẫn của Ngài.
Kính thưa quý vị,
Có thể một vài anh chị em trong hàng ngũ Phật Giáo cực đoan cảm thấy khó chịu khi đọc bài làm chứng nầy. Nhưng đó là do bản tính con người bình thường vừa tốt vừa xấu, vừa đúng vừa sai trong mỗi chúng ta. Tội lỗi rất tinh vi, nó khiến chúng ta ưa phân rẽ, ưa hận thù vì những khác biệt về tôn giáo, văn hóa, dân tộc... Mọi tôn giáo, văn hóa và dân tộc giữa thế gian nầy đều tạm bợ. Vì thế gian là cõi tạm. Thế gian có quá nhiều tín ngưỡng. Tín ngưỡng nầy thờ khỉ, tín ngưỡng kia thờ bò, tín ngưỡng nọ thờ chuột, tín ngưỡng ấy thờ hình tượng, lại có tín ngưỡng thờ vĩ nhân, thờ bình vôi, thờ ông táo, thờ cây đa... nhưng thảy đều thờ những tạo vật hữu hạn hoặc vô tri. Kinh Thánh dạy chúng ta phải hết lòng, hết ý thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên chúng ta. Chúa Jesus Christ đến từ Đức Chúa Trời để mạc khải Đức Chúa Trời cho chúng ta.
Tôi thành tâm tha thiết kêu gọi anh chị em từ mọi tôn giáo văn hóa và dân tộc nên mạnh dạn trở về trong Chúa Jesus Christ để nhận ơn tha tội, để được tái sinh, để được sự sống đời đời và được nhận lại bản tính nhân lành của Cha thiên thượng. Bất cứ ngày nào còn sống, tôi muốn nói lên chân lý nầy và bất cứ lúc nào lìa khỏi xác thân để về với Chúa là tôi được hưởng nước trời vĩnh cửu.
Gặp Chúa là vô cùng hạnh phúc, không ai có thể ngậm miệng, không ai nỡ mặc nhiên chấp nhận những ý kiến chung chung cho rằng “đạo nào cũng tốt, đạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ”. Thế gian có nhiều tôn giáo mê tín sai lầm, cũng có tôn giáo dạy điều sai lạc; nếu không dứt khóat trở về trong Chúa, con người chúng ta không thể giải quyết được vấn đề tội lỗi của mình và chỉ tiếp tục sống trong mù mờ tăm tối cho đến khi linh hồn hư mất trong tối tăm! Kính mong anh chị em sớm trở về trong Chúa Jesus Christ để được hưởng thiên đàng ngay hôm nay.
Muốn thật hết lòng.
Nguyễn Huệ Nhật
