6. Bệnh
Viện Jê-sus
Một
sáng nọ, tôi dậy sớm hơn mọi ngày. Như thường lệ, tôi ngồi ở bực tam cấp đầu
cầu thang tập thể dục. Đang khi luyện hai bắp tay của mình, bỗng nghe tiếng
người bạn Hàn gọi. Tôi đứng
lên bước vào bên trong phòng của anh ta. Tôi ngồi xuống giường nệm, tay vẫn cầm
cái lò xo bằng sắt vẫn cứ bóp vào, thả ra đều đặn. Nào ngờ, cái nệm mềm quá,
mất thăng bằng tôi té nghiêng, nên thanh sắt bung khỏi bàn tay đập mạnh vào con
mắt. Tôi thét lên một tiếng vì quá đỗi đau đớn, buốt nhức tận trên màng óc. Tôi không thấy gì nữa cả. Người bạn
Hàn hốt hoảng:
- Are you ok? Are
you ok? (Anh không sao chứ?)
- I don’t see
anything! (Tôi chẳng thấy gì cả!)
Rồi anh ấy gọi xe
đưa tôi vào bệnh viện.
Tôi
được đưa vào phòng cấp cứu với con mắt sưng húp bầm tím. Sau khi khám xong, bác
sĩ cho biết phải giải phẫu ngay lập tức; nếu không sẽ nguy hại cho cả đôi mắt.
Tôi bàng hoàng như cơn mơ và trả lời dứt khoát với bác sĩ rằng:
- Không, tôi không muốn giải phẫu, thưa
bác sĩ. Chúa Jê-sus sẽ chữa lành cho tôi nhất định. Bác sĩ không nói gì có lẽ ông thất
vọng bước ra khỏi phòng.
Tôi ở lại trong phòng một mình cho đến
ngày hôm sau. Mục sư Choi vào thăm thật sớm. Ông nhỏ nhẹ khuyên tôi hãy để cho bác
sĩ giải phẫu. Nếu không, tôi sẽ phải bị trả về trường và không ai chữa trị cho
mình. Nghe lời ông, tôi
miễn cưỡng chấp nhận.
Tôi tỉnh dậy sau hơn sáu tiếng đồng hồ
hôn mê. Đầu nhức như búa
bổ. Tôi được đưa vào căn phòng chật ních người, chuyện trò huyên náo. Suốt mấy
đêm liền, tôi không thể nào chợp mắt được vì bác sĩ buộc phải nằm sấp xuống
giường sau khi mổ.
Đây là bệnh viện có tên Jesus Hospital nằm gần nhà thờ của giáo sư A-đam, nơi
tôi thường nhóm lại những chiều Chúa nhật. Đã bao nhiêu lần bách bộ ngang qua chỗ
này, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày phải bước vào đây. Từ sâu thẳm trong lòng tôi rất sợ bệnh
viện. Các bác sĩ và y tá ở
đây rất nhân từ. Họ chăm
sóc bệnh nhân tử tế. Mỗi người toát ra một tình yêu đầy trắc ẩn. Tuy nhiên, vì quá đau đớn trước tai
nạn bất ngờ, và lo lắng cho đôi mắt, nên trong lòng bất an. Nhưng, Đức Chúa Trời không để tôi cô
đơn. Ngài khiến cho các Mục sư, con cái Chúa từ Hội Thánh Jê-bôn, An-ti-ốt và
những nhóm anh em người Việt mà chúng tôi giúp họ học Kinh Thánh thường xuyên
thăm viếng. Các bạn cùng lớp của tôi thay phiên nhau túc trực bên giường. Những cặp vợ chồng là bác sĩ, giáo sư,
sinh viên trong Chúa cũng đến thăm và cầu nguyện cho tôi mỗi ngày. Mục sư Choi chiều nào cũng ghé thăm.
Ông ôm tôi vào lòng thổn thức kêu nài với Chúa. Tiếng Hàn, tôi chỉ hiểu được đôi chút,
nhưng bởi Thánh Linh tôi cảm nhận một điều là ông rất xót xa trước hoạn nạn của
tôi. Ông nài nỉ kêu xin Chúa chữa lành và dâng trình hoàn cảnh tôi lên cho Đức
Chúa Trời. Ông kêu gào với
Chúa với tất cả nỗi lòng mình: “Ha-na-nim, Ha-na-nim! Cam-
xa ha-mi-ta! Mỗi khi vào
thăm, ông thường mang đến cho tôi bánh xà phòng tắm dở dang còn một nửa, hay
những bộ áo quần lót mới toanh. Ông nói với tôi rằng nếu tôi ở bệnh viện một
tuần, ông sẽ ở bên tôi một tuần. Nếu tôi ở một tháng, ông cũng sẽ ở bên tôi một
tháng. Đúng như vậy, ông là người bạn thân thiết, là đầy tớ của Đức Chúa Trời
đúng nghĩa. Ông đối xử với tôi như người anh em cốt nhục. Dầu buồn thảm với nỗi cô đơn và lo sợ,
nhưng có ông bên cạnh lòng tôi được sưởi ấm bởi tình yêu ngọt ngào mà Đức Chúa
Trời đã đặt để trong lòng ông.
Một lần nọ,
không còn chịu nổi cái không khí ngột ngạt trong căn phòng đông đúc người bệnh,
tôi đi bằng chiếc xe lăn tay, xuống mấy tầng lầu để lẻn ra bên ngoài hít thở
chút không khí trong lành. Đang ngồi thơ thẩn nghĩ đến gia đình mình ở Việt Nam , tôi tự
trách mình bao nhiêu thứ. Tôi
cảm thấy trĩu nặng tâm hồn với nỗi nhớ nhung vợ con da diết, kèm theo sự giày
vò trong cơn đau xác thịt.
Trời Chonju, những buổi chiều đầy mây
và giá buốt. Bao nhiêu buổi chiều như thế đã đi qua. Trên đồi cao nhìn xuống những con
đường lờ mờ trong lớp sương rơi. Hoàng
hôn phủ xuống rất nhanh và bóng tối bỗng chốc vây quanh chiếc xe lăn của mình. Tôi gục đầu xuống gối để khóc cùng
Chúa. Tôi thật sự bi quan!
Trong cái ánh sáng lờ mờ ấy, Mục sư
Choi lại xuất hiện. Ông mỉm cười đẩy chiếc xe tôi vào trong, và trao cho tôi
một thùng cà chua đóng hộp. Ông đưa tôi trở lên thang máy về phòng. Ông ngồi
xuống bên giường, ôm tôi vào lòng như ôm “đứa con” bé bỏng. Ông bắt đầu cầu
nguyện kêu xin cùng Chúa. Trong vòng tay yêu thương của ông, tôi thổn thức
khóc và biết ơn Đức Chúa Trời. Trong
suốt hai tuần lễ, đêm nào tôi cũng trải qua những ác mộng đầy sự chết chóc và
kinh hoàng! Mỗi ngày đi
qua, trên đầu tôi một giải khăn trắng quấn trên đôi mắt nhức nhối với bóng tối
mịt mờ. Những loạt âm thanh từ chiếc chuông tay lốc cốc của người đưa cơm buổi
sáng đánh thức tôi dậy trước năm giờ. Tôi
mệt mỏi, hao mòn trong những hy vọng mong manh…
Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời
của tình yêu và nhơn từ, Ngài đã nghe thấu nỗi đau đớn tận cùng của đưá con yếu
đuối. Cho nên, Ngài lo liệu, chăm sóc mọi bề. Ngài cho roi vọt để chính Ngài ràng
rịt vết thương. Ngài trui rèn trong lửa thử thách để dùng làm công cụ cho công
việc của Ngài trong những ngày hầu đến…
“Giê-hô-va
Đức Chúa Trời tôi ôi!
“Tôi kêu
cầu cùng Chúa, và Chúa chữa lành tôi
“Hỡi Đức
Giê-hô-va Ngài đã đem linh hồn tôi khỏi Âm phủ,
Gìn giữ
mạng sống tôi, hầu tôi không xuốngcái huyệt…
“Hỡi các
thánh của Đức Giê-hô-va, hãy hát ngợi khen Ngài,
“Cảm tạ sự
kỷ niệm thánh của Ngài
“Vì sự giận
Ngài chỉ trong một lúc
“Còn ơn của
Ngài có trọn một đời: Sự khóc lóc đến trọ ban đêm, Nhưng buổi sáng bèn có sự
vui mừng.
(Thi Thiên 30: 3,4,5)
7. Lời Chúa
Chữa Lành
Tờ mờ sáng, Mục sư Choi đã đến bệnh viện để đưa tôi về trường. Tôi
được xuất viện. Con đường cái quang hốm ấy rộng thêng thang cho tôi cái cảm
giác thật bao la về tình yêu của Đức Chúa Trời. Tôi giống như con chim bị nhốt
trong lồng suốt hai tuần lễ. Bây
giờ, được Chúa mở cửa lồng cho ra ngoài, lòng tôi sung sướng vô biên, muốn được
cất cao đôi cánh tung bay. Hai bên đường là những dãy núi màu xanh bạc bị che
khuất trong màn sương dày đặc. Tôi
phải mang kính đen vì mắt hãy còn băng vải và nhức nhối. Mục sư Choi nói với
tôi giọng êm đềm:
-
_ Hôm nay chắc thầy vui
lắm phải không?
-
_ Vâng, thưa Mục sư, bây
giờ tôi mới cảm thấy giá trị sức khoẻ là
gì!
-
_ Có như vậy, chúng ta mới
biết đếm từng ngày trong ơn Chúa.
Chẳng
mấy chốc, chúng tôi đã rẽ vào cổng trường Viện Thần Học. Nhìn lên dốc núi, ngôi
trường màu gạch đỏ vẫn hồn nhiên trải qua bao năm tháng thăng trầm. Tôi bước vào phòng trọ, đứng bên khung
cửa sổ mở rộng trong lớp kính màu đục, nhìn theo bóng dáng chiếc xe hơi màu
trắng của Mục sư Choi dần khuất. Tôi
quỳ xuống dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời. Sau
đó, bách bộ đến nhà ăn nằm ở tận phía bên kia sân bóng, dưới những quả đồi đầy
những cây hoa anh đào san sát nhau; mùa xuân rực rỡ, mùa đông úa tàn trơ trụi.
Trên đường đi, gặp
Mục sư Thomas. Anh ôm chầm lấy tôi vui mừng:
- Praise the Lord! Bạn đã về.
Bỗng dưng anh
nhìn tôi ái ngại, giọng buồn bã:
- - Mình nghe nói phần ăn của cậu
và cả tiền phụ cấp đã bị cắt rồi!
-
_Thật
sao? Ai cắt vậy, bạn Thomas?
- Bà giáo sư cố vấn của cậu đấy. Vì sao
cậu biết không, bà nói cậu đã có bệnh viện và Hội Thánh Hàn lo rồi, nên khoa
sinh viên quốc tế không cần lo cho cậu nữa! Mục sư Thomas nắm tay tôi kéo đi:
-
_ Thôi về phòng đi, ở tầng
hầm còn đồ ăn đấy.
-
_ Không sao đâu anh
bạn yêu quý của tôi. Tôi
cũng không đói lắm.
Rồi những ngày
nối tiếp nhau đi qua, thời tiết càng thêm lạnh lẽo, nỗi cô đơn lại lớn dần.
Đêm đến, nghe tiếng chim kêu trong khu
rừng phía sau nhà trọ đơn độc đến não nùng. Thỉnh thoảng có tiếng khóc của
người con gái từ nơi cầu nguyện ở Chapel vọng ra như nài nỉ kêu xin với Chúa
điều gì. Tôi cảm thấy thật
trống trải và trái tim bị nỗi buồn xâm chiếm. Mỗi lúc như vậy, tôi càng chiến
đấu nhiều hơn trong sự quỳ gối để xin Chúa lấp đầy những khoảng trống vắng. Hơn bao giờ hết, tôi nhận ra
kinh nghiệm vô cùng quan trọng đó là mối thông công thiết hữu với Chúa; và
chính Lời của Ngài là liều thuốc có quyền năng chữa lành những vết thương lòng.
Càng đau khổ, hãy càng bám riết lấy Chúa:
“Xin Chúa cứu giúp chúng tôi
khỏi sự gian truân;
“Vì
sự cứu giúp của loài người là hư không.”
“Hãy
trao gánh nặng ngươi cho Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ nâng đỡ ngươi;
“Ngài
sẽ chẳng hề cho người công bình bị rung động”
Mục sư
Choi vẫn thường đến thăm tôi vào những ngày đầu tuần; đưa tôi đi ăn bên ngoài
để bồi dưỡng những hao mòn sau những ngày trong bệnh viện. Các giáo sư người
Hàn vẫn thường ghé phòng tôi cầu nguyện trước khi đến lớp. Nhiều vị giáo sư là
con cái Chúa ở các trường khác thỉnh thoảng vẫn ghé thăm. Nhiều anh em cùng
trường cũng hay ghé vào mua cho cái thẻ điện thoại quốc tế, hay chở tôi đi bưu
điện để nói chuyện với gia đình.
Trời Korea đã thật
sự vào đông, thời tiết mỗi ngày thêm lạnh lẽo buốt xương. Tôi không thể nào học được nữa. Thỉnh thoảng tôi vẫn đến lớp với anh
em, nhưng vì con mắt nhức nhối không đọc được gì từ sách vở, cũng chẳng có thể
làm bài nộp cho các giáo sư. Chính vì vậy, tôi có cảm tưởng dường như những
người chung quanh mình ai cũng muốn xa lánh, bởi vì mình đã trở nên người vô
dụng!
“Chúa khiến những kẻ quen
biết tôi lìa xa tôi,
“Làm
tôi thành một vật gớm ghiếc cho họ”
Thật
ra, không phải vậy. Đó chỉ là thoáng tình cảm vị kỷ, đáng ghét! Tôi liền ăn năn
với Chúa. Trong hiện tại, có hàng nghìn hàng vạn người đang đói rách, khốn khổ.
Họ thiếu ăn, thiếu mặc, đau không thuốc chữa, đêm không có chỗ nằm. Mình quá
phước hạnh không có gì để than vãn!
Những anh em cùng lớp đang chuẩn
bị tài liệu viết luận án cho ngày tốt nghiệp. Còn tôi không còn đủ tâm trí để
nghĩ đến chuyện học hành. Mỗi sáng, tôi cố dậy sớm ra bên ngoài tập hít thở
không khí, rồi tìm một tảng đá nào đó ngồi xuống để cầu nguyện cùng Chúa. Tháng ngày vẫn cứ lặng lẽ đi qua. Tôi thường lên thư viện để viết email
về cho gia đình chuyện trò với vợ con cho vơi bớt nỗi buồn. Cũng chính vì vậy, mà mắt tôi bị chảy
máu nhiều lần phải vào bệnh viện cấp cứu.
Không thể nào kéo lê thêm những ngày
vô vị và trống rỗng, nên tôi xin giáo sư khoa trưởng cho tôi được trở về Việt Nam để có điều
kiện nghỉ ngơi và có vợ con chăm sóc. Ông đồng ý. Thế là tôi dùng tất cả số tiền của con
cái Chúa giúp đỡ, mua đủ một vé máy bay trở về Đà Nẵng, thành phố quê hương nơi
mà vợ con tôi đang sinh sống.
8. Trái Tim Người Vợ
Mục sư Thomas đưa tôi từ trường
đến phi trường Incheon mất bốn tiếng bằng xe buýt. Tôi phải ngồi đợi ở đó đến chiều
tối mới đáp chuyến bay về Sài- Gòn.
Tôi là người cuối cùng ra khỏi chỗ lấy
hành lý. Hai chiếc va-li nặng trì đầy ắp những áo quần và đồ đạc linh tinh mà
tôi đã mua nhiều tháng trước đó, mong có ngày đem về tặng cho vợ con, những đầy
tớ Chúa và bạn bè. Từ đàng
xa tôi đã nhìn thấy Phượng trong bộ áo quần màu kem nhìn tôi mỉm cười. Bước vội
ra ngoài, chúng tôi chỉ kịp quàng nhẹ vai nhau rồi leo lên một chiếc taxi chạy
về một khách sạn nhỏ.
Nhờ người bồi
phòng đem hành lý vào bên trong, tôi nói khẽ với Phượng:
- _ Anh thèm phở lắm. Mình ăn một tô rồi
hãy lên phòng.
-
_ Ừ, thì ăn, em cũng
đói
bụng.
Chúng tôi lại ngồi với nhau bên chiếc
xe bán phở vỉa hè gần khách sạn. Mùi rau quế bốc lên quyện lẫn trong mùi thơm
của nước phở, tôi ăn một lượt hai tô. Phượng trố mắt nhìn tôi thích thú. Đó là
những tô phở có lẽ ngon nhất trong đời.
Đêm ấy, chúng tôi quỳ gối
bên nhau trong niềm hạnh phúc để dâng lời tạ ơn Chúa. Sau gần một năm xa cách,
chúng tôi có bao nhiêu là chuyện để tâm tình. Thời gian này Chúa cho chúng tôi
nhận ra rằng chúng tôi cần có nhau biết bao nhiêu. Phượng ở nhà phần thì thay
tôi điều hành Trung tâm Giảng dạy Ngoại ngữ trong một thời gian khá vất vả,
phần thì chăm sóc con cái, phần nhớ thương chồng trong cơn hoạn nạn ở xứ người.
Trái tìm của Phượng đã chia làm nhiều nơi nên dáng nét có vẻ hao gầy.
Tôi nắm bàn tay Phượng thổn
thức, không nói thành lời. Tiếng
chuông đồng hồ trên tường vẫn gõ đều lách cách. Có lẽ đêm đã khuya khoắt…
Mười giờ sáng hôm sau chúng tôi đáp
tắc-xi đến văn phòng của một bác sĩ mắt nổi tiếng tại Sàigòn, vì nếu được chữa
lành ở đây, tôi sẽ không trở lại Hàn Quốc nữa.
Sau khi khám xong, bác sĩ kéo nhẹ tay
tôi nói nhỏ với cặp mắt ngưỡng mộ, khâm phục trước tấm lòng của người phụ nữ:
- Anh là người hạnh phúc nhất trên đời!
- Bác sĩ nói gì tôi không hiểu.
- Tôi chưa nói
về con mắt của anh, nhưng tôi muốn nói về trái tim của chị.
- Là sao ạ, bác sĩ
muốn nói gì?
-
Chị nhà nói với tôi trước khi khám cho anh, nếu như con mắt anh có điều gì
không ổn, chị ấy sẽ đổi con mắt cho anh nếu như tôi có thể giải phẫu và thay thế
được. Chị nói rằng anh cần phải làm nhiểu việc hơn là chị. Anh quả thật diễm
phúc!
Nghe những lời này, nước mắt tôi ưá ra
cầm tay Phượng. Nhìn sâu vào đôi mắt thân yêu của người vợ mà Đức Chúa Trời đã
ban cho, tôi không đủ lời để tạ ơn Ngài. Tôi tự nhủ lòng mình: “Dẫu rằng anh có
bị mù đi, thì anh vẫn cảm thấy mình quá phước hạnh vì có em bên anh.”
Nhà thơ Xuân Quỳnh đã thốt lên:
“Không gì bằng được sống gần nhau
“Niềm hạnh phúc với
em là lớn lắm.”
Sách Nhã Ca
có chép: (4:7)
“Hỡi bạn ta, mình vốn xinh đẹp
mọi bề,
“Nơi mình chẳng có tì vết
gì cả.”
9. Chúa Đáp
Lời Trong Lúc Gian Truân
Tôi trở lại Chonju vào một ngày tháng
hai, lạnh cóng. Tuyết rơi
ngập sân trường. Tôi khom
mình xuống lầm lủi bước đi trong rét mướt. Khó khăn lắm, tôi mới lên được các
bậc tam cấp cao nghều và trơn trợt để vào trình diện giáo sư khoa trưởng trong
văn phòng riêng của ông. Gặp
lại tôi, ông chỉ gật đầu cho có lệ. Còn bà Carol Chu ngước mắt nhìn tôi “phán”
một câu lạnh lùng:
- Cậu có mang theo năm nghìn đô- la đó
không?
- Dạ không, thưa giáo sư. Tôi chỉ có ba trăm đô-la
- Vậy thì hãy về lại Việt Nam đi! Nhà
trường không trả tiền cho cậu lần thứ hai nữa.
- Thưa giáo sư! Tôi về nhà dưỡng
bệnh, chứ đâu có làm gì để có được số tiền như vậy.
- Cậu không chấp hành yêu
cầu của trường, chúng tôi không biết đến cậu nữa!
Biết nói gì
hơn, tôi lặng lẽ bước ra khỏi phòng của ông bà. Trái tim tôi co thắt và quá đỗi ngạc
nhiên trước thái độ thay đổi kỳ quặc và lời nói lạnh lùng của những giáo sư
mình. Tôi lững
chững bước xuống những tam cấp đầy tuyết giá và ngửa mặt lên trời để kêu xin
cùng Chúa: “Chúa ôi!
Xin hãy thương xót con! Con khốn cùng và thiếu thốn.”
Tôi vừa đi xuống phòng trọ vừa khóc. Bỗng tôi nghe một giọng nói quen thuộc
của giáo sư Yu-Té-Yu, người Hàn. Ông
là người vẫn thường đến thăm viếng tôi trong những ngày ở bệnh viện, cũng như
lúc về phòng trọ.
- Teacher Té phải
không, em qua lại đây khi nào? Ông nói tiếng Anh rất giỏi và vội vàng chạy đến
nắm tay tôi. Ông lo lắng hỏi:
- Sao em khóc?
- Thưa giáo sư…
chắc em phải trờ về lại Việt Nam .
Giáo sư Chu bảo như vậy.
- Tại sao bà ấy
lại ra lệnh như thế chứ? Ông có vẻ không vui.
- Vì em không có
năm nghìn đô -la để đóng cho bệnh viện trong lần mổ thứ nhì sắp tới.
Giáo sư Yu-Té-Yu
ôm tôi vào lòng thật chặt. Từ
nơi ông, toát ra hơi ấm của tình người và tình yêu trong Chúa:
- Ồ! Có gì đâu,
Chúa của chúng ta giàu có lắm, em biết không? Đừng lo lắng làm gì! Đi với tôi
lên Chapel chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Tay
tôi trong tay ông cùng qùy gối để trình dâng nan đề lên cho Đức Chúa Trời.
Trên đồi cao nhìn xuống thung
lũng, những cây cối trơ trụi phủ trắng trong những bông hoa tuyết. Không khí vắng lặng đến rợn người. Bên ngoài, rét mướt tràn cứ vào những
khe cửa. Tiếng cầu nguyện
thiết tha của hai thầy trò dường như xua tan đi cái giá buốt. Tình yêu và niềm tin quyết của hai mái
đầu cùng với sự khát khao Chúa làm cho chúng tôi mạnh mẽ như chàng Đa-vít dũng
cảm thuở xưa trước người khổng lồ Gô-li-át.
“Đa-vít đáp cùng người Phi-li-tin
rằng: Ngươi cầm gươm, giáo, lao mà đến cùng ta; còn ta, ta nhơn danh Đức
Giê-hô-va vạn binh mà đến, tức là Đức Chúa Trời của đạo binh Y-sơ-ra-ên, mà
người đã sỉ nhục…Khắp thế gian sẽ biết rằng Y-sơ-ra-ên có một Đức Chúa Trời; và
quân lính này sẽ thấy rằng Đức Giê-hô-va không giải cứu bằng gươm, hoặc bằng
giáo; vì Đức Giê-hô-va là Chúa của chiến trận, và Ngài sẽ phó các ngươi vào tay
chúng ta.”
Vâng, đức tin và sự nhờ cậy Chúa khiến
hai thầy trò chúng tôi cảm thấy mạnh mẽ lạ thường. Chúng tôi nhận diện được kẻ thù là ma
quỷ của thế giới tối tăm, nên phải lấy lời của Đức Chúa Trời và sự quỳ gối mà
cự địch lại chúng nó.
Sau khi cầu nguyện, tâm hồn tôi thanh
thóat và cảm nhận được rằng bảo hiểm y tế đã được Đức Chúa Trời trả xong. Bước
xuống cầu thang, tôi nhìn lên trên tường, một bức chân dung tuyệt đẹp của một
hoạ sĩ nào đó, vẽ Chúa Jê-sus với đôi mắt buồn xa xăm cùng những giọt máu đào
nhỏ xuống. Lòng tôi rung động và biết ơn Ngài.
Những ngày trở lại trường, tôi phải tự
túc lo mọi thứ vì các tiêu chuẩn trợ cấp đã bị cắt hết. Bây giờ tôi mới hiểu ra
một điều thật chua xót. Ông
bà giáo sư khoa trưởng thật sự muốn xua đuổi tôi đi ra khỏi trường để không
phải mang lấy gánh nặng. Thảo nào, từ ngày tôi vào bệnh viện cho đến khi xuất
viện, giáo sư khoa trưởng chỉ ghé thăm một lần duy nhất. Còn bà Chu ,
giáo sư cố vấn của tôi vẫn biệt tăm chưa một lần nào ghé thăm, cũng không bao
giờ gọi một cú điện thoại! Tôi có buồn nhưng không hề oán trách bởi vì tôi tin
chắc đây là chương trình của Đức Chúa Trời. Ngài để cho những hoàn cảnh nghiệt ngã
ấy xảy ra hầu giúp tôi chiêm ngưỡng được tình yêu vĩ đại và sự quan phòng kỳ
diệu của Ngài. Quả thật như vậy, từ trên cao Đức Chúa Trời nhìn thấy tất cả.
Ngài rủ lòng thương xót đứa con tội nghiệp của Ngài đang sống trong cô đơn và
cùng khốn, không biết ngày mai sẽ như thế nào! Đức Chúa Trời lại có một chương
trình tiếp trợ đặc biệt khác. Ngài
sai các tôi trai tớ gái của Ngài từ Hội Thánh Jê-bôn, An-ti-ốt đến thăm viếng
và chia sẻ thực phẩm cho tôi. Những giáo sư người Hàn và sinh viên của trường
Hanil đến thăm tôi mỗi ngày trước và sau giờ học. Có anh em đã cởi chiếc áo
lạnh đang mặc choàng lên vai tôi cho đỡ cóng. Người khác chia đôi phần ăn của họ
cho tôi một nửa. Đức Chúa
Trời dùng một nữ giáo sư đứng tuổi của một trường trong vùng lân cận đến thăm
viếng thường xuyên và tận tình giúp đỡ. Tình
yêu của Chúa bao la, bát ngát, mênh mông như đại dương.
“Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va
thay!
“Vì Ngài đã nghe tiếng cầu khẩn của tôi”
Pastor Peter Le Van