Con người tùy theo
tuổi tác mà có giấc ngủ dài hay ngắn, nông hay sâu. Trẻ sơ sinh và người rất
già (trên 90 tuổi) ngủ rất nhiều, tới 10-15 giờ mỗi ngày, người trưởng thành
cần ngủ 7-8 giờ/ngày.
Nếu không đạt được
những giờ ngủ bình thường ấy kèm theo khó ngủ và giấc ngủ không ngon, không sâu
sẽ làm suy giảm hoạt động ban ngày, hiện tượng này gọi là mất ngủ. Mất ngủ tạm
thời là mất ngủ khoảng dưới 2 tuần lễ, mất ngủ mạn tính được quy ước từ 3 tháng
trở lên.
Muốn chữa mất ngủ thì
điều cốt yếu là tìm nguyên nhân gây mất ngủ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng
dễ tìm được nguyên nhân, trong trường hợp chưa tìm được nguyên nhân cần có sự
hỗ trợ của thuốc ngủ. Nếu không có tổn thương thực thể nào, đa phần là do kích
thích, căng thẳng, lo âu, suy nghĩ quá mức.
Thị trường thuốc hiện
nay có rất nhiều thuốc ngủ, an thần, đó là:
Các Barbital: Những thuốc này, thế kỷ trước được dùng nhiều
và rộng rãi, nay đã có nhiều thuốc mới an toàn hơn, thuốc chỉ còn sử dụng trong
một phạm vi nhất định như gây mê, cho bệnh nhân bị động kinh...
Các Benzodiazepin: Thuốc có nhiều dẫn xuất được dùng nhiều nhất,
mỗi dẫn xuất lại có những tác dụng an thần như: trấn tĩnh, giải lo âu; điều trị
rối loạn giấc ngủ do kích thích, mệt mỏi lo lắng; chống kinh giật, co thắt cơ.
Một số dẫn xuất còn được dùng để làm thuốc cai rượu...
Các thuốc này đều có
tác dụng khá giống nhau, nhưng có nhiều điểm khác nhau về mức độ tác dụng, thời
gian tác động (ngắn, trung bình, dài), thời gian bán thải ít là vài giờ, lâu có
thể tới 100 giờ. Ví dụ như Estazolam thời gian tác động trung bình, thời gian
bán thải từ 10-24 giờ; Flurazepam, thời gian bán tác động dài, thời gian bán
thải tới 100 giờ. Đa số những thuốc này đều để lại những tác dụng không mong
muốn gây khó chịu như lờ đờ, vật vã, chếnh choáng...
Điều hết sức chú ý khi
dùng các thuốc ngủ an thần dẫn xuất Benzodiazepin là: Có thể bị lệ thuộc nếu
dùng liều cao, lâu dài. Khi không dùng thuốc, có hiện tượng cai thuốc như nhức
đầu, mất ngủ, lo âu, đau và căng cơ, dễ bị kích thích, lú lẫn, có thể bị run,
co giật, ảo giác và quên. Vì vậy cần có sự chỉ định liều lượng, thời gian sử
dụng của bác sĩ chuyên khoa.
Thuốc có nhiều chống
chỉ định: người nhược cơ, trầm cảm, phụ nữ mang thai 3 tháng đầu, 3 tháng cuối
thai kỳ và người đang nuôi con bú.
Cấm uống rượu và chế
phẩm có cồn (bia, vang nhẹ, rượu nếp...) hoặc dùng cùng lúc với các thuốc ức
chế thần kinh trung ương khác, thuốc chống trầm cảm, thuốc trị động kinh, thuốc
kháng histamin H1 làm dịu... vì nếu uống cùng các thuốc này sẽ làm tăng tác
dụng an thần tới mức nguy hiểm.
Không dùng cho người
đang đứng máy, lái xe, làm việc trên cao hoặc môi trường nguy hiểm; những người
phải thức đêm (trực đêm), những người phải tập trung tinh thần, tư tưởng vào
công việc. Người già có thể bị ngã do tác dụng phụ của thuốc.
Các kháng histamin H1
làm dịu: dựa vào nhóm etylamin, người ta tổng hợp ra các thuốc kháng histamin
H1 để dùng trong trường hợp dị ứng, buồn nôn, nôn, ban ngứa, chóng mặt, nhưng
riêng với diphenhydramin và promethazin được dùng trong chứng mất ngủ.
Cần lưu ý là chúng
cũng có các chống chỉ định và lưu ý như các benzodiazepin trên đây mà còn có
những tác dụng phụ như suy giảm hệ thần kinh trung ương, ngủ sâu, mệt mỏi,
choáng váng, mất phối hợp hoặc ngược lại là kích thích với người già và trẻ em.
Thuốc còn gây nhức đầu, keo dịch tiết (khô miệng, mờ mắt, táo bón) đặc biệt gây
tăng triển khối u tuyến tiền liệt.
Các thuốc khác:
Các thuốc như Benzoctamin tác
dụng trấn tĩnh nhưng an thần kém hơn Diazepam; buspiron tác dụng trị lo âu là
chính, không gây an thần; captodiam tác dụng trấn tĩnh nhẹ; Etifoxin trị lo âu
và điều hòa thần kinh thực vật; Hydroxyzin với thần kinh dễ kích thích và gây
ngủ nhẹ; Mephenoxalon dùng trong căng thẳng thần kinh, tăng xúc cảm, rối loạn
thần kinh thực vật; Meprobamat với lo âu, thần kinh bị kích thích và khó ngủ;
trimetozin gây trấn tĩnh, giải lo âu nhưng không gây ngủ và không thư giãn cơ;
valnoctamid gây trấn tĩnh giải lo âu do rối loạn chức năng; Zolpidem chủ vận
đặc hiệu đến thụ thể trung tâm thuộc phức hợp.
Các dược thảo:
Việc truyền tụng tâm sen, nhị sen, lá vông,
hoa thiên lý, lạc tiên, tang bạch bì, long nhãn, đan sâm, táo nhân... theo kinh
nghiệm dân gian ít nhiều có tác dụng an thần. Tuy nhiên để có hiệu lực và tác
dụng, thuốc cần được tiêu chuẩn hóa về các mặt, kể cả lâm sàng, tương tự như
passiflozine
(Passiflore và Aubepine) hoặc Passinevryl (Passiflore - cây lạc
tiên, aubepine - cây đào gai, valeriane - cây nữ lang, saule - cây liễu) với
dạng bào chế thích hợp sẽ tốt hơn nhiều. Mất ngủ là một điều tồi tệ trong đời
sống. Nó ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt, lao động học tập và tâm sinh lý.
Thuốc ngủ chỉ có tác dụng hỗ trợ, không chữa được tận gốc căn nguyên bệnh. Dùng
thuốc nên từ liều thấp và điều quan trọng là tránh lạm dụng thuốc và phải dùng
thuốc theo chỉ định của bác sĩ.
Không nên uống trà, cà
phê và các chất kích thích thần kinh, nhất là buổi tối. Uống một cốc sữa nóng,
luyện tập nhẹ nhàng và vệ sinh giấc ngủ tỏ ra có ích.
DS. Phạm Thiệp