Lời Kinh Thánh

Hãy tin Đức Chúa Jesus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. Kinh Thánh - Công Vụ Các Sứ đồ 16: 31

Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2012

Đức Chúa Trời ở Mỹ Quốc (Phần 1)


Pastor  Peter Le Van

1. Sương mờ Portland

  Tôi thức dậy thật sớm để kịp đến trường.  Thời tiết Portland những ngày đông rét buốt.  Bên ngoài, tuyết rơi trắng xóa. Khoác thêm một cái vest thật dày cho đỡ lạnh, nhưng tôi phải co rút đầu xuống để bước đi. Đường phố vẫn còn vắng lặng dường như người ta đang ngủ say.  Tôi đứng chờ xe buýt hơn mười phút mà vẫn không thấy nó ở đâu.  Tôi nhắm mắt cầu nguyện: “Chúa ôi! Con không muốn đến lớp trễ hôm nay xin Ngài cho xe buýt đến kịp giờ. Con cảm ơn Chúa!” Cầu nguyện lần thứ nhất, mở mắt ra chẳng thấy gì, lần thứ hai vẫn chưa có gì thay đổi. Nhưng lần thứ ba, vừa mở mắt ra, một chiếc xe hơi màu bạc cũng vừa trờ tới.  Như cái máy, tôi đưa tay vẫy xin quá giang.  Xe dừng lại đột ngột. Một người thanh niên da trắng trạc tuổi ba mươi ra dấu bảo tôi lên xe.  Tôi mừng quýnh chưa kịp nói điều gì ngoài lời cảm ơn thì anh ta lên tiếng:

- Anh không biết tôi, nhưng tôi biết anh, chúng ta cùng trường và cùng lớp.
Tôi hết sức ngạc nhiên:
- Thế à? Cảm ơn Chúa!

Anh ấy tươi cười nói thêm:

- Mình là người hàng xóm nữa.  Nhà tôi ở đối diện nhà anh.
Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tôi nhìn anh ta đáp lại niềm vui bằng ánh mắt.

Chỉ có mấy phút sau là chúng tôi đến trường.  Bước ra khỏi xe hơi, Patrick và tôi trở nên bạn của nhau từ đó.  Chuông báo hiệu giờ học đã bắt đầu.  Buổi sáng hôm ấy lòng tôi rạo rực một niềm vui khó tả.  Đức Chúa Trời quá nhân từ và Ngài biết tôi đang cần gì.  Ngài bước đi với tôi mỗi bước, che chở cho tôi trên mỗi chặng đường.  Làm sao chúng ta có thể hình dung được ở xứ Mỹ rộn ràng, đầy phức tạp này mà có người xin xe quá giang như tôi? Không chỉ một lần mà việc này đã xảy ra nhiều lần tương tự. Ngày mới đến thành phố này, tôi bị lạc đường đôi lần và đã từng đưa tay vẫy xin xe quá giang.  Lúc đó, tôi đang ở tại nhà Mục sư Lê Tự Cam trên một ngọn đồi cách xa trường ba mươi phút. Trời nắng chang, bụng đói cồn cào, người mệt lã nên tôi đến gặp một người phụ nữ đang sửa chữa điện ở cột đèn vừa xong:

-          Cô ơi! Tôi bị lạc đường, xin cô làm ơn chỉ giúp tôi địa chỉ này có được không ạ?
Người phụ nữ tươi cười cầm lấy tờ điạ chỉ và bảo tôi lên xe:
-          Được rồi, tôi sẽ chở anh đến đó.

Ngồi trên xe, lòng tôi mỉm cười không hiểu nổi tại sao giữa cái xứ sở quá ư rộn ràng và tất bật mà vẫn có những con người tốt bụng như vậy?  Mùi cát bụi từ những cái găng tay dơ dáy pha lẫn với mùi của “cà-lê, mỏ-lếch” ngổn ngang mà tôi cứ tưởng chừng như mùi vị của một thứ hương hoa nào đó ngọt ngào và dễ chịu.  Đó là mùi vị tình yêu của Đức Chúa Trời mà mắt trần của chúng ta không nhìn thấy được.
Chưa được ba phút, chỉ cần quẹo sang một khúc cong dọc theo phía triền núi, người lái xe mỉm cười nói với tôi:
- Đó kìa, nhà này phải không?
    Tôi reo lên:

- Vâng, đúng rồi ạ.  Tôi bước xuống xe cảm ơn người phụ nữ rối rít và không quên nói, “God bless you!” Tôi ngẩng mặt lên trời để cảm ơn Chúa.   Ngài quả thật kỳ diệu, và tôi nhớ đến Lời Chúa:

 “Song tôi cứ ở cùng Chúa luôn luôn
 “Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy mà dẫn dắt tôi…
 “Ở trên trời tôi có ai ra trừ Chúa?
  “Còn đưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa
                         (Thi Thiên 73: 23, 24, 25)

         Mùa rét mướt rồi cũng qua đi.  Những bông hoa tuyết đã tan biến nhường chỗ cho nắng Xuân.  Qua ô cửa kính, màu tím, vàng, xanh, đỏ rực rỡ nhưng dịu dàng của những hàng cây thẳng tắp nối tiếp nhau tận cuối đường.  Tôi cảm ơn Chúa vì không còn phải chịu đựng những cơn rét cóng người, không còn phải mang hai ba lớp vớ cùng một lúc.  Nhìn lên tờ lịch, một dấu chấm đỏ mà tôi đã chéo ngang để nhắc nhở chính mình về ngày đám cưới con gái đầu của tôi, Thục Hạnh.  Tôi hao hức chờ đợi ngày ấy sẽ được gặp lại vợ con của mình.  Họ đang ở tận miền nam Cali, thành phố San Diego hiền hoà cách xa tôi gần ba giờ bay.

Đã bao nhiều đêm rồi, tôi thỏ thẻ thưa cùng Chúa:

“Chúa Jê-sus ôi!  Sao Ngài đặt để con nơi này?  Con mong được sống gần vợ và con cái.  Con thèm khát cái không khí ấm áp của gia đình.  Con ao ước có được bữa ăn tối quây quần bên những người thân yêu.  Con mong đợi có một bàn tay chăm sóc, an ủi.  Con sợ lắm cái cảnh này!  Chúa ôi!  Con thực sự không đủ sức chống cự với nỗi cô đơn dai dẳng.  Chúa ôi! xin Ngài đáp lời con.”

Bên ngoài, bóng tối đổ xuống thật nhanh.  Những ánh đèn nhạt nhòa trong lớp sương mờ đục.  Tôi qùy gối từng đêm chuyện trò cùng Chúa để trao hết tâm sự cho Ngài.  Căn nhà trọ, trường đã thuê cho tôi là một apartment dành cho sinh viên quốc tế.  Họ ở đây là những gia đình có vợ chồng con cái.  Còn tôi, trơ trọi một mình và ngày tháng cứ lặng lẽ trôi qua.  Thật không dễ dàng chút nào trong cuộc sống đơn điệu và quạnh hiu!

Lục lọi hết đống quần áo của mình từ Việt Nam mang qua, không có bộ áo quần nào ra hồn để mặc trong ngày cưới của con gái. Tôi bèn quì gối cầu nguyện:

“Chúa Jêsus của con ôi!  Xin Ngài cho con một bộ áo quần màu đen với chiếc quần lai lật để mặc trong ngày đám cưới con gái.  Một cái áo vest “phong trần” vải nỉ, để mặc lên lớp trong những buổi sáng sớm trời lạnh.”

Thế rồi, những ngày sau đó, tôi nhìn thấy một đống áo quần nằm trong chiếc xe “shopping cart” cạnh chiếc cầu thang  mà tôi lên xuống mỗi ngày.  Một buổi sáng trước giờ đến lớp, Patrick hỏi tôi:

- Áo quần của ai để đây vậy, Uncle The?
- Tôi đâu có biết, Patrick ạ!

      Người bạn Mỹ của tôi nhặt lên từng cái một.  Mắt tôi mở to nhìn vào đống áo quần sửng sốt.  Tôi nhảy lên trước sự ngạc nhiên của người bạn.  Một bộ vest màu đen còn mới toanh với chiếc quần lai lật, hai áo vest bằng sợi len màu xám.  Tôi mừng rỡ và làm chứng cho người bạn của mình về lời cầu xin Chúa của tôi trong những ngày qua.  Patrick cười thật tươi và giúp tôi mang hộ những áo quần lên phòng nơi tôi ở.  Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của tôi và đáp lời. Ngài đã ban cho tôi nhiều hơn những gì tôi đã xin.  Những ngày sau đó, tôi chia sẻ một áo vest cho một người anh em hầu việc Chúa tai Hội thánh Nước Sống. Tôi làm chứng lại cho cậu ấy nghe món quà mà Đức Chúa Trời đã ban tặng.  Lời của Chúa phán hứa đã ứng nghiệm:

        “Ấy vậy, các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? uống gì? mặc gì? Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi.  Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.  Vậy chớ lo lắng chi về ngày mai; vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai.  Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy.”
                            (Mathiơ 6:31, 32, 33, 34)

Chuyến bay của hãng Alaska từ Portland đưa tôi về California vào một ngày nắng ấm.  Bước ra khỏi phi trường lòng tôi hân hoan được gặp lại những người thân yêu của mình.  Chính nơi đây, đã bao lần vợ con tôi đưa tiễn.  Tôi rất sợ cảnh chia tay và sống mỗi người một nơi.  Tôi cố gạt bỏ đi những liên tưởng đến ngày ra đi trở lại trường.  Giờ đây, tôi ngẩng mặt lên trời để bày tỏ lòng biết ơn đối với Chúa và tận hưởng niềm hạnh phúc.  Từ trong sâu thẳm của đáy lòng tôi có được bài học thật quí giá:

“Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ ngươi trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài.  Hãy nhờ cậy Đức Giê-hô-va đời đời, vì Đức Giê-hô-va, chính Đức Giê-hô-va là vầng đá của các thời đại!”

Lời Chúa văng vẳng bên tai.  Tôi cất giấu Lời Ngài vào trái tim mình để vững bước đi trên những chặng đường gian nan sắp tới.

Sau đám cưới, trở lại Portland lần này tôi bớt buồn hơn vì có cô con gái thứ nhì tháp tùng.  Thục Uyên, tình nguyện đi theo để chăm sóc cho ba.  Có hai cha con, căn hộ rộn ràng hơn trước. Tôi xin cho Uyên một chỗ làm thêm trong một tiệm sách của người Việt Nam.

Mỗi chiều, tôi thường ngồi ở cầu thang mong đợi con gái về. Patrick cho Uyên mượn xe đạp đến trường mỗi ngày và dùng nó để làm phương tiện đến tiệm sách.  Hai cha con thay phiên nhau lo việc nấu nướng hằng ngày.  Chúng tôi ăn uống sơ sài qua bữa, chỉ mong sao đủ chi phí trang trải cho tiền nhà, điện và học phí của tôi là thỏa lòng rồi.

Ngày hôm ấy, sau khi từ trường trở về chưa kịp ăn uống, hai cha con đã lội bộ đến tận cuối con đường rất xa để cùng khiêng cái giường cũ người ta vất ngoài đường, đem về cho Uyên nằm. Cái giường nặng lắm, Uyên đội trên đầu muốn vẹo cổ.  Tội nghiệp con bé!  Ngày còn ở Việt Nam, Chúa đã ban cho gia đình chúng tôi mọi thứ.  Có thể nói rằng giáo giới như chúng tôi chỉ thèm thuồng và mơ ước.  Nhà lầu bốn cái dùng làm trường học, cho người nước ngoài thuê, cho em gái của mình, cái còn lại dùng để ở.  Bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, chúng tôi sống trong điều kiện dư thừa và sung túc. Con cái đến trường trong những bộ aó quần đắt tiền và đi những chiếc xe xinh đẹp, có người đưa kẻ đón.  Chúng chưa bao giờ phải vất vả làm lụng hay lo nghĩ đến tiền bạc.  Những nhà hàng nào sang trọng, chúng tôi không ngần ngại bước vào.  Cuộc sống phước hạnh đó, là do Đức Chúa Trời đem đến.

Ngày nay, sống ở một đất nước phồn vinh, nhưng chúng tôi là những kẻ nghèo khó.  Gia tài qúy giá nhất đó là niềm tin tuyệt đối vào một Chúa Jê-sus nhơn lành.  Không nản lòng, vững chí bước đi bởi vì lòng chúng tôi tin quyết vào một Đức Chúa Trời đầy quyền năng giàu lòng thương xót.  Ngài có chương trình cho chúng tôi.  Hoàn toàn tin tưởng như vậy, chúng tôi mạnh mẽ bước đi trong gian khổ để trưởng thành, cam chịu thử thách để được rèn luyện và hy vọng vào một ngày sẽ được Đức Chúa Trời đại dụng.

 “Phước cho những kẻ than khóc, vì sẽ được yên ủi!
“Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất!
“Phước cho những kẻ đói khát sự công bình vì sẽ được no đủ!
      “Phước cho những kẻ hay thương xót vì sẽ được thương xót!”
                                    (Mathiơ 5:4-7)

2. Cái Cell-Phone Của Chúa

Buổi sáng hôm ấy, đang khi ngồi trước máy computer.  Tôi đọc và Thục Uyên đánh máy cho tôi một bài viết cho tờ tạp chí của Hội Thánh Nước Sống.  Hội Thánh này do Mục sư Nguyễn Châu Hóa quản nhiệm.  Ông là thầy tôi thời trung học, người đã đưa tôi vào bên trong nhà thờ Đà Nẵng 1982 để nghe giảng và tiếp nhận Chúa Jê-sus.
Tôi kể cho Uyên nghe về giấc mơ kỳ lạ, có vẻ khác thường mà tôi đã trải qua trong đêm.  Tôi thấy mình bước đi trong trũng hài cốt ngổn ngang đầy sự chết chóc và kinh hoàng.  Tuy là chiêm bao, nhưng không phải bình thường như bao nhiêu lần khác.  Có điều gì đó bí ẩn.  Trong tâm linh tôi như được báo trước một điều không tốt lành sẽ xảy ra.  Con gái tôi dường như không quan tâm lắm:

- Chiêm bao là chuyện thường mà ba, hơi sức đâu để ý!
- Không bình thường đâu!  Ba cảm thấy có điều gì đó không ổn. Chắc có chuyện không hay xảy ra cho cô Hà.

Hà, là em gái của tôi đã bị bệnh nan y trước ngày tôi đi Mỹ. Chồng của cô đã qua đời hai năm trước đó.  Tôi biết sẽ có một ngày em tôi sẽ về với Chúa, nhưng vẫn hy vọng ngày đó chưa xảy ra sớm, tôi sẽ trở về kịp trước thời gian ấy.  Đang khi suy nghĩ, bỗng cái cell-phone reo lên.  Từ bên kia đầu dây, giọng nói của nhà tôi hơi run:
- Hãy bình tĩnh! Cô Hà về với Chúa cách đây mấy tiếng đồng hồ.

Tim tôi thót lại, nhói đau.  Không kiềm chế được, tôi đã khóc to lên thành tiếng nức nở.  Thục Uyên bối rối:
- Ba ơi! Hãy bình tĩnh, đừng làm con sợ!

Hai cha con cùng qùy xuống tạ ơn Chúa trong nước mắt giàn giụa; mặc dầu lòng tôi tin chắc em tôi đã ngủ yên trong Chúa, theo ý muốn tốt đẹp của Ngài.  Sau đó, tôi dùng cái cell-phone của mình để gọi về Việt Nam lo tang lễ cho em.  Tôi biết máy của tôi không còn đủ số phút để gọi, bèn giơ cao chiếc cell-phone lên mà cầu nguyện:
 Chúa Jêsus của con ôi!  Xin Ngài cho con nói chuyện với gia đình ở Việt Nam. Con chỉ còn có mười phút.  Chúa ôi!  Xin giúp con!

Thục Uyên chẳng hiểu điều gì đang xảy ra, tưởng rằng tôi đã mất trí.  Nên tôi giải thích:

- Ba có kinh nghiệm này khi ở Đại-Hàn. Con chờ xem, sẽ thấy…

Cầu nguyện xong, tôi bấm máy gọi các cháu, sau đó liên lạc với các Mục sư và một vài anh em thân thiết của Hội Thánh Đà Nẵng và An Trung, nơi em tôi sinh hoạt.  Xong xuôi các cuộc gọi có lẽ kéo dài hơn một tiếng đồng hồ.  Tôi kiểm tra máy, cell-phone không nhảy thêm phút nào cả.  Chương trình tôi mua chỉ giới hạn sáu trăm phút, trong khi đã gọi năm trăm chín mươi phút, nghĩa là chỉ còn mười phút trong máy.  Sáng hôm sau, tôi kiểm tra lại máy, nó chỉ nhảy lên đúng sáu trăm phút và dừng lại ở con số đó.  Con gái tôi run sợ trước quyền năng của Đức Chúa Trời.  Còn tôi, lòng được an ủi vì biết rằng có Đức Chúa Trời đang ở bên mình. Tuy nhiên, tôi không khỏi buồn đau với bao tiếc nuối.  Hình ảnh em gái tôi lúc chia tay ở phi trường Đà Nẵng, nó không nói một lời nào cả, chỉ ngồi im lặng úp mặt trong chiếc nón lá và khóc.


 Để lại cho anh

Tiễn anh ra phi trường
Nước mắt em giàn giụa
Anh đâu dám nhìn lại
Bởi lòng nghe xót xa

Anh qua đến xứ người
Áo cơm nhiều lận đận
Những buồn vui hờn giận
Anh cố giấu vào trong

Đêm đêm anh cầu nguyện
Để Chúa gìn giữ em
Cho em được sống thêm
Mong ngày anh gặp lại

Trời tháng tư còn lạnh
Mưa rả rích ngoài hiên
Nhận được tin chẳng hiền
Em ra đi bỏ lại…

Sáu đứa con mồ côi
Chúng bỏ trường bỏ lớp
Tất tả miếng cơm ăn
Lòng anh như dao cắt

 Em ra đi bỏ lại
Anh một trời nhớ thương
Tuổi thơ ngày tháng ấy
Giờ đây lệ vấn vương

Ba năm rồi bỏ xứ
Anh lang thang quê người
Mỏi mòn thương chốn cũ
Ngày ấy tiễn anh đi…

California 2005

Cuộc đời của mỗi chúng ta thật ngắn ngủi, như chiếc bóng nay còn mai mất, như cánh hoa sớm nở tối tàn.  Cho nên, điều cần thiết là chúng ta phải khám phá được mục đích của Đức Chúa Trời đặt để trên đời sống của mình là gì?  Xét cho cùng mọi vật trên thế gian này, chẳng có vật nào là sở hữu lâu dài, ngay cả những gì qúy giá nhất như những người thân yêu: cha mẹ, anh em, con cái…cũng chẳng thuộc về chúng ta. Đức Chúa Trời ban cho, rồi lại cất đi:

 Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống, và hơi thở của cả loài người.
               (Gióp 12:10)

“Hỡi Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết cuối cùng tôi,
“Và số các ngày tôi là thể nào;
“Xin cho tôi biết mình mỏng manh là bao,
“Kìa, Chúa khiến ngày giờ tôi dài bằng bàn tay
“Và đời tôi như không không trước mặt Chúa
“Phải mỗi người dầu đứng vững, chỉ là hư không
“Quả thật, mỗi người bước đi khác nào như bóng;
“Ai nấy đều rối động luống công;
“Người chất chứa của cải, nhưng chẳng biết ai sẽ thâu lấy.”
                        (Thi Thiên 38:4-6)

3. Hai con người khác biệt

Cô Angie Prosser, cố vấn sinh viên quốc tế của trường Kinh Thánh mà tôi theo học, đi cùng tôi đến văn phòng sở di trú.  Ngay phút đầu tiên, người nữ nhân viên phỏng vấn dường như không mấy thiện cảm.  Cô nhìn tôi, lạnh lùng:

 Anh giơ tay lên thề nói sự thật!

 Tôi không thề được, nhưng tôi nói sự thật vì tôi là Cơ Đốc nhân.
Chưa trải qua những sự việc này, hơi bất ngờ nên tôi chỉ nhớ đến lời Chúa dạy:

Song ta phán cùng các ngươi  rằng đừng thề chi hết: đừng chỉ trời mà thề, vì ngôi của Đức Chúa trời;  đừng chỉ đất mà thề, vì là bệ chơn của Đức Chúa Trời…”

 Nét mặt cô nhân viên trở nên cau có khó chịu:
 Đã có hàng trăm Cơ Đốc nhân nói dối ở đây.  Nếu anh không làm theo, tôi sẽ không hỏi anh nữa.

Cô Angie không được phép nói gì cả.  Cô ra dấu cho tôi biết phải giơ tay thề, và tôi đã nghe theo.  Sau nhiều tiếng đồng hồ chất vất với bao câu hỏi hóc búa.  Tôi cảm thấy có điều gì không ổn vì những câu trả lời của tôi lúng túng, không thuyết phục.  Mỗi lúc, cô càng đưa tôi vào chỗ bế tắc khó có câu trả lời thỏa đáng. Dường như cô chỉ ở vai trò tấn công kẻ yếu thế.  Quang cảnh diễn ra như cảnh sát tra vấn tội phạm.  Tôi thầm nghĩ có lẽ cô đã thành kiến với nhiều Cơ Đốc nhân đã nói dối.  Mấy tiếng đồng hồ trôi qua, tôi ký vào những trang giấy cô ghi chép lời khai của tôi, và nghe cô kết luận:

- Bổn phận tôi chỉ làm công việc vừa xong.  Phần quyết định do Giám Đốc.  Trong một tuần, anh sẽ nhận được thông báo kết quả.

 Không cần nhận giấy tờ thông báo gì cả, tôi cũng đã đoán ra được kết quả ngay lúc đó.  Nhưng tôi thản nhiên ra về cùng với cô Prosser dịu dàng, nhân hậu. Cô an ủi tôi:
- Đừng buồn làm chi anh ạ!  Cô ta cũng chỉ làm bổn phận của mình mà thôi.  Về nhà, anh nhớ cầu nguyện nhiều hơn nữa!

- Cảm ơn Angie! Chúa sẽ không bỏ con cái của Ngài.
Nhìn Angie một lần nữa, tôi cảm nhận một điều gì đó khác biệt rất xa giữa hai người phụ nữ!

Tôi không buồn lắm, nhưng thật sự đã lo lắng.  Nếu bị từ chối chuyện phục hồi di trú, tất nhiên gia đình chúng tôi phải trở về Việt Nam.  Nguyên nhân câu chuyện này bắt nguồn từ nỗi nhớ nhà và sự cô đơn của tôi.  Tôi đã xin chuyển về một trường Thần Học Việt NamCalifornia để gần gũi gia đình.  Có một giáo sư trong Ban Điều Hành tại đó khích lệ.  Nhưng khi trở về mới biết rằng trường không có thẩm quyền trong việc cấp I.20 cho sinh viên quốc tế.  Mục sư có trách nhiệm giúp tôi lại bận về Việt Nam Tôi đã gọi điện thoại cho ông nhiều lần, nhưng không được trả lời.  Cuối cùng, tôi thả trôi cho đến mùa Xuân của năm sau, mới trở lại Portland để học lại và xin phục hồi di trú.

Một buổi sáng, Prosser đến gặp tôi buồn bã:

- Cô ấy đã gưỉ email thông báo là từ chối trường hợp của anh.
- Tại sao lại gửi bằng email? Tôi cần văn bản chính thức gửi qua bưu điện.
Thế là mấy hôm sau, tôi đã nhận thư thông báo chính thức. Trong thư có nói rằng, tôi không phải phí thì giờ để trình bày, giải thích gì khác vì đó là quyết định chính thức và cuối cùng.

Ông hiệu trưởng gặp tôi khuyên phải chấp hành thông báo của Sở Di Trú.  Nếu không, sẽ ảnh hưởng cho trường đối với sinh viên quốc tế trong tương lai.  Biết rằng không còn cách nào khác, nên hai cha con chúng tôi chuẩn bị rời bỏ Portland, chia tay với trường lớp, những bạn bè thân yêu và nhất là Hội Thánh Nước Sống nơi chúng tôi đang sinh hoạt.

Patrick luống cuống cả buổi sáng khi tiễn đưa hai cha con chúng tôi.  Mặt cậu ta xanh mét.  Cặp mắt thường ngày đã ẩn chứa nỗi buồn sâu kín nào đó, bây giờ trông có vẻ thảm não hơn.  Patrick yêu thương cha con chúng tôi trong một thứ tình yêu không giống sự đổi chác như thế gian này, và chúng tôi cũng vậy.  Nhưng, giờ đây tất cả mọi thứ đẹp đẽ kia cũng sắp sửa kết thúc; những ngày tháng được sống gần bên nhau sẽ không còn nữa.  Tôi tin chắc rằng, trong mỗi chúng tôi kỷ niệm sẽ còn sống mãi. 

Chuyến bay mệt mỏi, đầy ưu tư đưa chúng tôi rời Portland; thành phố sương mù vẫn còn đọng lại trong lòng hai cha con chúng tôi bao nhớ thương và nuối tiếc…
Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời, cho dù phải đối diện trong muôn nghìn khó khăn, có lúc tưởng chừng như hoàn toàn tuyệt vọng, nhưng kỳ thật lòng chúng tôi vẫn bình an. Chúng tôi tin cậy   Đức Chúa Trời và chờ đợi sự  giải cứu của Ngài.

“Tôi nhịn nhục trông đợi Đức Giê-hô-va,
“Ngài nghiêng qua nghe tiếng kêu cầu của tôi
“Ngài cũng đem tôi lên khỏi hầm gớm ghê, khỏi vũng bùn lấm
“Ngài đặt chân tôi trên hòn đá
“Và làm cho bước tôi vững bền.”

  (Thi Thiên 40:1, 2)