Thật là một
điều dường như hoàn toàn bất công. Tôi đã làm việc khó nhọc để sống lây lất bằng
một bửa ăn. Tôi đã phấn đấu vất vả để học hành, để chuẩn bị tạo lập cuộc đời.
Tôi đã mơ ước xây dựng một điều gì cho riêng tôi, nhưng bây giờ tôi đang nằm để
chờ chết.
Từ thuở
bé, tôi đã thờ lạy Phật, nhưng bây giờ Phật chẳng ban cho tôi sự cứu giúp nào cả.
Thật ra, tôi không ngạc nhiên, vì trong những năm gia đình theo Phật, chưa bao
giờ tôi thấy Phật đáp ứng một lời cầu xin nào.
Một ngày
kia, trong lúc đang làm việc, máu bỗng trào ra đầy miệng tôi. Tiếp theo đó, máu
cũng chảy ra nơi lỗ mũi. Tôi cố gắng để khỏi bị nghẹt thở cho đến khi ngất xỉu.
Khi tỉnh dậy, áo quần tôi dính đầy máu. Tôi không thể gượng dậy được vì quá
choáng váng. Tôi cũng không biết tôi đã nằm tại đó bao lâu. Cuối cùng, tôi phải
khó nhọc lắm mới đứng dậy được và bước về nhà. Suốt đêm tôi bị lên cơn sốt mê
man, lúc mê lúc tỉnh, và mỗi lần ho máu lại trào ra.
Sáng hôm
sau, tôi cảm thấy gần chết hơn là sống. Cha mẹ tôi đưa tôi đến một bịnh viện và
nhờ một y sĩ khám nghiệm. Ông ta chụp quang tuyến X buồng phổi của tôi, sau đó
ông bảo tôi: "Tôi rất buồn, nhưng chúng tôi không thể làm gì cho anh được.
Anh không thể sống thêm một tháng nữa."
"Bác
sĩ!" Tôi thét lên: "Ông đang nói thật với tôi chứ?"
ANH KHÔNG THỂ SỐNG THÊM MỘT THÁNG NỮA
Vị y sĩ
cho tôi xem tấm phim chụp quang tuyến X và giải thích: "Lá phổi bên phải của
anh hoàn toàn bị hủy hoại vì bịnh lao. Phần bên trái đã nát và ung thối. Lá phổi
bên trái của anh cũng bị lao. Tình trạng thiếu dinh dưỡng và làm việc cực nhọc
đã khiến trái tim anh nở lớn ra, và khiến cho máu không thể lưu thông điều hòa.
Không có một loại dược phẩm nào có thể chữa trị những chứng bịnh này, cho nên
tôi không còn cách nào khác hơn là nói với anh sự thật!"
Tôi trở về
nhà, người choáng váng. Cha tôi an ủi tôi: "Con ạ, không có sinh cũng không
có tử, không có vui cũng không có buồn. Chỉ ở trong Phật mới có sự thực hữu.
Con hãy quên sự sống sự chết đi để lo tịnh dưỡng." Tôi phản đối: "Máu
đang trào ra nơi miệng con là thật. Sự đau đớn mà con đang chịu đựng là thật.
Phật và những triết lý của cha không giúp ích gì cho con cả. Con bác bỏ hết."
Một hôm,
đang khi nằm trong chiếc lều, sự sợ hãi và tuyệt vọng xâm chiếm tâm tư tôi. Tôi
gào lên: "Có Thượng Đế không? Nếu có Đấng nào gọi là Thượng Đế đang ở chỗ
nào trong vũ trụ, xin đến và cứu giúp tôi! Tôi muốn được sửa soạn để chết!"
CÓ THƯỢNG ĐẾ TRONG VŨ TRỤ KHÔNG?
Thượng Đế
đã nghe lời cầu xin của tôi và Ngài đã trả lời bằng một hình thức mà tôi không
nghĩ đến! Một cô gái nhỏ gõ cửa và bước vào, tay ôm quyển Kinh Thánh. Tôi kinh
ngạc vì theo văn hóa của Đại Hàn, đàn bà không cấp tiến và đàn ông không thích
để đàn bà dạy dỗ. Tôi quyết liệt bảo cô bé rời khỏi căn lều, nhưng cô nói rằng:
"Tôi biết ông đang sắp chết, tôi muốn được nói chuyện với ông về Đức Chúa
Giê-Xu Christ, Cứu Chúa của tôi."
Tôi càng
giận dữ và mắng nhiếc cô gái. Tôi bảo cô rằng hàng triệu vi trùng lao đang bay
đầy trong không khí và cô sẽ bị lây bịnh. Cô chỉ trả lời: "Đấng Christ của
tôi sẽ bảo vệ tôi"; và cô tiếp tục làm chứng cho tôi. Cuối cùng cô rời căn
lều và tôi nói: "Nhờ ơn Phật, cô ta đã đi."
Sáng hôm
sau cô gái trở lại. Lần này cô hát những bài ca và đọc lớn những lời trong Kinh
Thánh. Tôi nguyền rủa và gọi cô ta là "một con chó Cơ-đốc", nhưng cô
ta không có phản ứng gì cả. Suốt ngày chỉ nói về Đấng Christ.
Vào ngày
thứ năm khi cô gái đến, tôi hỏi tại sao cô tiếp tục đến và cầu nguyện cho tôi.
Cô bảo tôi: "Có một Đấng thúc dục tôi đến đây và cầu nguyện cho ông."
"Đấng
đó là ai? Tôi hỏi cô gái.
"Là
Đức Chúa Giê-Xu của tôi." Cô gái trả lời và nước mắt bắt đầu chảy dài xuống
trên đôi má của cô. Thình lình sự cố chấp của tôi tan biến, tôi cũng bắt đầu
khóc và bảo cô gái: "Tôi muốn biết Chúa Giê-Xu của cô."
Cô trao
cho tôi quyển Kinh Thánh và tôi bắt đầu đọc từ chỗ được cô chỉ dẫn, đoạn thứ nhất
của sách Mathiơ. Mấy phút sau tôi kêu lên: "Đoạn này giống như một cuốn điện
thoại niên giám, làm thế nào giúp ích tôi được?" Cô bảo tôi cứ tiếp tục đọc
và sẽ tìm được một câu chuyện kỳ diệu. Sau khi cầu nguyện thêm một lần nữa, cô
gái rời khỏi căn lều.
Tôi đọc
tiếp, đinh ninh sẽ gặp những triết lý khó hiểu, giống như triết lý của Phật
giáo mà tôi đã đọc. Nhưng tôi khám phá ra: Kinh Thánh là một quyển sách nói về
một Đấng gọi là Giê-Xu Christ, con của Đức Chúa Trời.
Tôi đọc
những chỗ nói về Đức Chúa Giê-Xu chữa lành kẻ đau và cứu kẻ chết sống lại. Tôi
nghĩ rằng nếu tôi chỉ đến với Chúa Giê-Xu thì Ngài sẽ giúp tôi. Nhưng lý trí lại
cho rằng tôi không thể đến với Ngài được. Tôi đã xúc phạm và ghét Ngài. Tôi cố
gắng tìm một câu Kinh Thánh dẫn chứng rằng Đấng Christ ghét bỏ tội nhân, nhưng
hoài công tôi chẳng tìm được một câu nào cả. Trái lại, tôi thấy Ngài đã tha thứ
cho người đàn bà tà dâm và giải thoát những kẻ bị quỷ ám. Ngài luôn luôn tiếp
nhận kẻ đau ốm và người tội lỗi. Dần dần tôi ý thức được rằng, mặc dù tôi là một
người nghèo nhất trong đám người nghèo, một kẻ đầy tội lỗi và sắp chết vì bịnh
lao phổi, Đức Chúa Giê-Xu sẽ tiếp nhận tôi.
Từ ngày tặng
cho tôi quyển Kinh Thánh, cô gái không trở lại. Tôi không biết tên cũng không
biết làm thế nào để tìm cô gái. Tôi đang cần một người hướng dẫn tôi để gặp Đức
Chúa Giê-Xu. Tôi cố gắng bước ra ngoài đường phố và dọ hỏi. Một người chỉ cho
tôi một cơ sở truyền giáo, ở đó có một tu sĩ người Hoa Kỳ.
TÔI MUỐN
BIẾT ĐỨC CHÚA GIÊ-XU CỦA CÔ
Tôi kiệt
sức đến nỗi không thể đi được mười bước mà không nghỉ, tôi phải nhờ người đàn
ông đó đưa đi đến cơ sở truyền giáo. Khi chúng tôi đến nơi, người ta đang ca
hát, gương mặt của mọi người đầy vẽ hân hoan. Vị tu sĩ người Mỹ đứng lên để giảng
dạỵ. Tôi ngạc nhiên vì ông không mặc áo dài như những tu sĩ Phật giáo. Ông giảng
qua một thông dịch viên, những lời giảng làm tôi cảm động. Khi ông mời những tội
nhân bước lên phía trước, tôi là người đầu tiên đến gặp ông. Vị tu sĩ đưa tôi
vào văn phòng, giải thích cho tôi biết chương trình cứu rỗi và hướng dẫn tôi cầu
nguyện ăn năn tội.
Trong khi
tôi cầu nguyện ăn năn tội với Đức Chúa Trời và quyết định tiếp nhận Đức Chúa
Giê-Xu làm Cứu Chúa của chính tôi, thì một niềm bình an tràn ngập trong tôi.
Tôi cảm thấy tất cả tế bào trong thân tôi đều nhận được một sức mới. Có một
năng lực đang dâng trào lên trong người tôi và tôi tưởng rằng tôi sắp ói ra
máu. Nhưng không phải, tôi nhận ra rằng đó là niềm vui! Tôi muốn hát vang lên,
nhưng lại không biết hát như thế nào.
Tôi hỏi vị
tu sĩ, đó là ông Louis Richards, một giáo sĩ thuộc giáo hội Phúc Âm Ngũ Tuần:
"Đây là sự thực? Tôi đang bị thôi miên phải không?"
Ông trả lời:
"Anh không bị thôi miên đâu. Đức Chúa Giê-Xu, nguồn nước hàng sống, đang
chảy trào vào cuộc đời của anh. Đây là bằng chứng mà anh đang cảm thấy."
Tôi trở về
nhà mang theo niềm vui sướng cùng sự bình an. Tôi kể lại cho gia đình nghe những
điều đã xảy ra. ở Đại Hàn, người thờ phượng Đức Chúa Giê-Xu có nghĩa là chấm dứt
thờ cúng vong linh của tổ tiên. Sự kiện này thường dẫn đến sự đoạn giao của gia
đình. Chị tôi, người mà tôi kính yêu, đã thuyết phục tôi: "Em yêu mến
Giê-Xu hơn gia đình sao? Em có thể bỏ hết gia đình vì Ngài sao?" Còn cha
tôi thì bảo rằng ông không còn quan tâm đến sự sống chết của tôi nữa, và bảo
tôi phải rời khỏi gia đình ngay. Tôi lấy một ít đồ dùng và đi đến nhà ông bác
tôi. Gặp tôi ở ngưỡng cửa, bác tôi liền bảo: "Con chó Cơ-đốc bẩn thỉu, mày
không được đón tiếp nơi đây đâu. Hãy đi chỗ khác."
Tôi không
còn nơi nào khác để đi, nhưng niềm vui sướng và sự bình an vẫn tràn ngập tâm hồn
tôi. Tôi quyết định đi lên núi đặng chờ chết. Lúc bấy giờ một ý nghĩ khác đến với
tôi. Tôi phải đến nói vài lời cám ơn cuối cùng với người Mỹ đã hướng dẫn tôi gặp
Đức Chúa Giê-Xu.
Gặp ông ở
ngoài cửa, tôi nói: "Anh Richard, tôi thành thật cám ơn lòng tốt của anh đã
hướng dẫn tôi đến với Đấng Christ. Từ khi tiếp nhận Ngài, gia đình đã từ bỏ
tôi, cho nên tôi sắp lên núi để chờ chết. Tuy nhiên, tôi muốn anh biết rằng tôi
biết ơn anh."
Mục Sư
Richard kéo tôi vào trong nhà và đọc Kinh Thánh cho tôi nghe: "Khi cha mẹ
từ bỏ tôi, Chúa sẽ đón tiếp tôi." Ông bà Richard dọn một chỗ cho tôi trong
căn nhà của họ. Bà Richard nấu những món ăn ngon và chúng tôi cùng ngồi ăn.
Tôi đã
khóc trong lúc ngồi ăn và nói rằng: "Anh Richard, tôi không biết rằng anh
yêu thương tôi. Anh không liên hệ gì với tôi, sao anh có thể yêu thương tôi như
thế này? Ông trả lời: "Bởi vì Đức Chúa Giê-Xu cũng đã cứu tôi."
Lương tâm
không cho phép tôi ở chung trong nhà của họ mà tạo những tai hại cho họ vì chứng
lao phổi của tôi. Cho nên nhờ sự giúp đỡ của Chúa, tôi thuê được một căn phòng
nhỏ bên cạnh.
Mục sư
Richard tiếp tục dạy Kinh Thánh cho tôi. Ông bảo tôi: "Lời Chúa có quyền
năng sáng tạo phi thường. Lời Chúa sẽ chửa lành cho anh." Điều này hầu như
quá siêu phàm đối với thực tế, nhưng Mục sư Richard đã chỉ tôi nhiều đoạn Kinh
Thánh. Tôi học thuộc những câu Kinh Thánh này và một ngày kia tôi đem ra thí
nghiệm.
Tôi khóa
cửa phòng và bắt đầu cầu nguyện: "Kính lạy Đức Chúa Giê-Xu, con muốn được
gặp Ngài, xin cho con biết rõ tương lai của con." Tôi chờ đợi, nhưng Đức
Chúa Giê-Xu Christ không đến. Sau đó tôi nhắm nghiền mắt lại, hy vọng Ngài có
thể hiện ra trong một sự hiện thấy. Nhưng không có một sự hiện thấy nào. Tôi cầu
nguyện suốt ngày. Đêm đến ngực tôi đẩm ướt mồ hôi, nhưng tôi vẫn tiếp tục cầu
nguyện. Quá nửa đêm, tôi không còn sức lực và nằm xuống nghỉ.
Thình
lình căn phòng sáng rực. Những luồng ánh sáng thoạt đầu tôi tưởng là khói đang
cuộn vào. Tôi kinh hoàng, tưởng căn nhà đang bốc cháy. Tôi kêu la, nhưng không
có âm thanh nào toát ra.
Tuyệt vọng,
tôi ngó chung quanh và thấy hai bàn chân đứng bên cạnh tôi. Tôi nhìn lên cao
hơn và thấy một chiếc áo dài trắng. Rồi tôi thấy một gương mặt giống như mặt trời
sáng rực, đang phát chiếu những tia sáng. Tôi vẫn không biết Đấng đó là ai, cho
đến khi tôi nhận ra chiếc mão bằng gai. Những gai nhọn đâm vào thái dương, đầu
Ngài, và những giọt máu đang chảy dài xuống. Lúc bấy giờ tôi nhận biết Ngài là
Đức Chúa Giê-Xu Christ. Tình yêu của Ngài tràn ngập tâm hồn tôi.
Trước kia
những vị thần của tôi là những thần của sợ hãi và tai ương. Tôi thường đến đền
thờ của những vị thần này để xin khỏi bị trừng phạt. Nhưng Đức Chúa Giê-Xu thì
lại khác hẳn. Tôi cảm nhận tình yêu của Ngài và tất cả sợ hãi đều tan biến.
Một niềm
hân hoan tuyệt vời phát xuất từ đáy lòng của tôi. Môi và lưỡi tôi bắt đầu nói.
Tôi thở ngắn lại và dường như có một Đấng đang điều khiển và bắt phục môi lưỡi
tôi. Tôi không biết điều đó là gì, nhưng tôi nhận thật rằng tôi càng nói, càng
cảm thấy thoải mái hơn. Cho nên tôi cứ nói và tiếp tục nói.
Khi tôi ý
thức ngó lại sự vật chung quanh, Đức Chúa Giê-Xu đã biến dạng, nhưng sự vinh hiển
vẫn còn tràn vào tâm hồn tôi. Tôi quên hẳn sự đau nhức trong tim, trong phổi
tôi và chạy đến cơ sở truyền giáo. Tôi bảo Mục Sư Richard rằng tôi đã thấy Đức
Chúa Giê-Xu và đã nói một thứ tiếng lạ. Ông mở Kinh Thánh đoạn 2 của sách Công
vụ các sứ đồ và giải thích cho tôi biết: tôi đã được báp têm trong Đức Thánh
Linh như các môn đồ đầu tiên. Chúng tôi khóc lên vì vui sướng.
Sự từng
trải mới mẽ này khiến tôi muốn làm chứng về Chúa. Tôi đi ra ngoài đường phố và
nói về Đức Chúa Giê-Xu với mọi người đang khi sức khoẻ tôi khả quan hơn. Tôi đã
đi từ nhà này sang nhà khác.
Một hôm
tôi nhận thức rằng tôi không còn đau đớn trong tim và cũng không còn khó thở nữa.
Tôi đi đến bịnh viện, sau khi khám nghiệm và chiếu quang tuyến X, y sĩ bảo tôi
buồng phổi của tôi rất tốt, không còn vết tích bịnh lao. Tim của tôi cũng bình
thường.
Được sự
khuyến khích của các giáo sĩ giáo hội Phúc Âm Ngũ Tuần, tôi ghi danh học thần đạo
ở Hán Thành. Thường thì tôi không có tiền. Vào những lúc thời tiết lạnh thì các
giáo sĩ cho tôi mượn áo choàng để tôi không bị lạnh. Nhưng tôi có Đức Chúa Trời,
có Kinh Thánh và có sự bình an.
Sau đó,
tôi bắt đầu rao giảng đạo Chúa trong một căn lều vải rách rưới, trên một khu đất
bỏ hoang. Một nhóm tín hữu nghèo khổ nhóm họp tại đó. Tôi kể cho họ những điều
mà Đức Chúa Giê-Xu đã làm cho tôi, và bảo rằng Ngài sẽ làm những điều đó cho họ.
Chẳng bao lâu căn lều đầy người và họ phải đứng ở bên ngoài.
Chúng tôi
cần có một chỗ để thờ phượng Chúa lâu dài vì sự phát triển của Hội Thánh, và
chúng tôi đã mua được một cơ sở trung tâm ở Hán Thành. Cuộc phấn hưng tiếp tục.
Chẳng bao lâu hàng trăm giáo hữu nhóm chật thánh đường. Chúng tôi phải nới rộng
phòng họp và phải tổ chức hai thánh lễ mỗi buổi sáng Chúa Nhật, rồi ba lễ, bốn
lễ. Ngôi thánh đường mới của chúng tôi có 10.000 chỗ ngồi đã được hoàn tất.
Trong năm vừa qua có 1.000 tín hữu mới thêm vào Hội Thánh.
Hội Thánh
chúng tôi tăng trưởng bởi vì chúng tôi giảng về Đức Chúa Jesus Christ hôm qua,
ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi. Ngài tiếp nhận tôi khi tôi sắp
chết, cứu tôi, chữa lành cho tôi và báp têm trong Đức Thánh Linh cho tôi. Đó là
những điều mà nhân loại hiện đang khao khát. Triết lý và tôn giáo không đáp ứng
được nhu cầu của nhân loại. Thế giới cần sự hiện diện của Đức Chúa Jesus
Christ.
Tiến si Paul Yonggi Cho